Tờ trình Bộ luật dân sự 2015

CHÍNH PHỦ
Số:  390 /TTr-CP

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
          Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2014
TỜ TRÌNH
Về dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi)
 
Kính gửi: Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết số 23/2012/QH13 ngày 12 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2013, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và nhiệm kỳ của Quốc hội khóa XIII, ngày 17 tháng 1 năm 2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 439/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập Ban soạn thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan tiến hành soạn thảo dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) (sau đây gọi là dự án Bộ luật). Chính phủ kính trình Quốc hội về dự án Bộ luật này với những nội dung cơ bản sau đây:

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH BỘ LUẬT DÂN SỰ (SỬA ĐỔI)

1. Bộ luật dân sự năm 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật dân sự Việt Nam, phát huy thành tựu của Bộ luật dân sự năm 1995 và kinh nghiệm gần 20 năm đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Sau hơn 9 năm thi hành, Bộ luật dân sự cơ bản đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của chủ thể trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động v.v... (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự), thể hiện trên một số điểm lớn như sau:
Thứ nhất, Bộ luật dân sự đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về tôn trọng, bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực dân sự; về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua việc ghi nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế ở nước ta, sự đa dạng và đồng bộ của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu; hoàn thiện thêm một bước các quy định về quyền của người không phải là chủ sở hữu; ghi nhận sự bình đẳng giữa các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế;
Thứ hai, Bộ luật dân sự đã góp phần thúc đẩy sự hình thành, phát triển của quan hệ thị trường thông qua việc ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng; hạn chế sự can thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào quá trình hình thành, tồn tại và vận động của các quan hệ hàng hóa - tiền tệ; tạo cơ chế pháp lý để thực hiện tinh thần của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), theo đó, mọi cá nhân, tổ chức được làm những gì mà pháp luật không cấm, với điều kiện các việc làm đó không vi phạm lợi ích công cộng, đạo đức xã hội; ghi nhận nhiều biện pháp để bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý cho các chủ thể trong các quan hệ dân sự nói chung và kinh doanh nói riêng. Nhờ có các quy định có tính chất nền tảng này mà về cơ bản, các quan hệ thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã từng bước hình thành, phát triển;
Thứ ba, nhiều quy định trong Bộ luật dân sự đã có tính tương thích với thông lệ quốc tế, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập quốc tế;
Thứ tư, đối với hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, Bộ luật dân sự bước đầu đã thể hiện được vai trò là luật chung, luật nền. Có được vai trò này là nhờ các quy định của Bộ luật dân sự đã ghi nhận được những nguyên tắc và quy định cơ bản của việc điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ dân sự; đồng thời, đã bao quát được tương đối đầy đủ các vấn đề của đời sống dân sự. Nhờ vậy, Bộ luật dân sự đã góp phần vào việc khắc phục được một bước những mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật về sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng.
2. Tuy nhiên, bước sang giai đoạn phát triển mới của đất nước, trước yêu cầu thể chế hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 48 - NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW), Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW) đặc biệt là yêu cầu về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 thì Bộ luật dân sự hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nổi bật là các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, đặc biệt sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành là Nhà nước phải có cơ chế pháp lý để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân về dân sự. Tuy nhiên, một số quy định của Bộ luật dân sự hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu này, cụ thể như: (1) Chưa bảo đảm nguyên tắc quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế bởi luật trong những trường hợp đặc biệt như Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận; (2) Nhiều quy định về chủ thể, giao dịch, đại diện, nghĩa vụ và hợp đồng, thừa kế còn bất hợp lý, thiếu tính khả thi; (3) Chưa tạo được cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích của bên thứ ba ngay tình, của bên thiện chí, bên yếu thế trong quan hệ dân sự… Hạn chế này lại càng biểu hiện rõ nét trong bối cảnh hiện nay khi mà Hiến pháp năm 2013 đã đặt ra nhiều yêu cầu mới trong việc bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân ở nước ta;
Thứ hai, nhiều quy định của Bộ luật dân sự còn chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể như: (1) Bộ luật dân sự hiện hành giành rất nhiều quy định về quyền sở hữu, trong khi đó lại có rất ít quy định về các loại quyền khác đối với tài sản (quyền của người không phải là chủ sở hữu tài sản). Thực trạng này đã dẫn đến hậu quả là, pháp luật dân sự Việt Nam nói chung và Bộ luật dân sự nói riêng chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả các tài sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác của đất nước; (2) Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của bất cứ Bộ luật dân sự nào, trong đó có Bộ luật dân sự nước ta. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự hiện hành chưa ghi nhận đầy đủ các cơ chế pháp lý để thực hiện nhiệm vụ này, ví dụ như chưa ghi nhận được nguyên tắc quyền của tất cả các chủ sở hữu, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế đều được pháp luật công nhận và bảo vệ như nhau; (3) Một số quy định của Bộ luật dân sự còn gò bó, không phù hợp với tính năng động của nền kinh tế thị trường, do đó đã ảnh hưởng không tốt đến chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Ví dụ, theo quy định hiện hành về điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì các giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu do nhiều lý do khác nhau, do đó, không đảm bảo tính ổn định của quan hệ hợp đồng như một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế thị trường. Quy định hiện hành của Bộ luật dân sự về việc một pháp nhân chỉ có thể có một đại diện theo pháp luật và chưa có quy định về việc pháp nhân có thể là đại diện theo ủy quyền là không phù hợp với nhu cầu rất tự nhiên, chính đáng của các doanh nghiệp về đại diện, chưa bảo đảm tính chuyên nghiệp và tính nhanh nhạy trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng có nhu cầu và khả năng mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động của mình và việc tham gia tố tụng... Những hạn chế này cần phải được khắc phục sớm để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách thuận lợi, hiệu quả, góp phần xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta;
Thứ ba, trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, Bộ luật dân sự hiện hành còn chưa thể hiện được một cách đầy đủ vị trí, vai trò của mình với tư cách bộ luật nền, luật chung, nhất là trong việc thực hiện ba chức năng: (1) Quy định những vấn đề cơ bản nhất, chung nhất có liên quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc đời sống dân sự; (2) Định hướng cho việc xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự đặc thù, và (3) Khi các luật chuyên ngành không có quy định về một quan hệ dân sự thì quy định của Bộ luật dân sự được áp dụng để điều chỉnh. Bất cập này càng được thể hiện rõ hơn khi mà trong điều kiện hiện nay, bên cạnh Bộ luật dân sự, đã và đang tồn tại ngày càng nhiều đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực dân sự đặc thù, như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, Luật thương mại, Luật hôn nhân và gia đình, Luật sở hữu trí tuệ, Bộ luật lao động,… Kết quả là, Bộ luật dân sự nói riêng và hệ thống pháp luật dân sự nói chung còn chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về tính ổn định, tính khái quát, tính hệ thống, tính dự báo và tính minh bạch trong hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền;
Thứ , cấu trúc của Bộ luật dân sự có điểm chưa hợp lý, chưa bảo đảm tính đồng bộ, tính hệ thống, tính logic giữa các phần và chế định của Bộ luật. Nhiều quy định được lặp lại giữa các phần và các chế định; một số quy định không bảo đảm tính rõ ràng, tạo ra các cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật dân sự trong thực tiễn.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của Bộ luật dân sự nói riêng, pháp luật dân sự nói chung; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền dân sự của người dân. Do đó, việc xây dựng Bộ luật dân sự (sửa đổi) là rất cần thiết.
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN BỘ LUẬT DÂN SỰ
1. Tổng kết thi hành Bộ luật dân sự năm 2005
Để phục vụ cho việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự năm 2005, ngày 18 tháng 9 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1322/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch tổng kết thi hành Bộ luật dân sự. Hoạt động tổng kết thi hành Bộ luật dân sự được thực hiện tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 21 Bộ, ngành, tổ chức có liên quan ở Trung ương.[1] Ngày 22 tháng 6 năm 2013, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương và tổ chức có liên quan tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết thi hành Bộ luật dân sự theo hình thức tập trung tại Hà Nội với sự tham gia đầy đủ của đại diện các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao… Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã tham dự, chỉ đạo Hội nghị.
Ngoài hoạt động tổng kết thi hành Bộ luật dân sự, Cơ quan chủ trì soạn thảo cũng đã tổ chức nhiều hoạt động dưới nhiều hình thức để lấy ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành ở trung ương; cơ quan, tổ chức có liên quan ở một số địa phương; một số tổ chức luật sư, tổ chức kinh tế nhằm phát hiện những bất cập, hạn chế trong quy định của Bộ luật dân sự và đề xuất phương hướng hoàn thiện.[2]
2. Soạn thảo Bộ luật dân sự
a) Thành lập Ban soạn thảo, tổ biên tập
Ngày 17 tháng 1 năm 2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 439/NQ-UBTVQH13 thành lập Ban soạn thảo dự án Bộ luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp làm Trưởng ban, với thành phần bao gồm: Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan đến việc thi hành Bộ luật dân sự, đại diện lãnh đạo một số địa phương, tổ chức nghiên cứu, đào tạo pháp luật và một số chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật dân sự. Ngày 29 tháng 2 năm 2012, Ban soạn thảo dự án Bộ luật đã ban hành Quyết định số 310/QĐ-BST về việc thành lập Tổ biên tập để giúp Ban soạn thảo trong quá trình xây dựng dự án Bộ luật.
Ban soạn thảo đã chỉ đạo nghiên cứu, xem xét toàn diện, khách quan các vấn đề lớn liên quan đến mục tiêu, quan điểm cơ bản, định hướng xây dựng dự án Bộ luật và đã cho ý kiến nhiều lần về những nội dung lớn của dự thảo Bộ luật dân sự trước khi trình Chính phủ xem xét, quyết định.
b) Báo cáo Chính phủ về mục tiêu, quan điểm và một số định hướng cơ bản trong sửa đổi Bộ luật dân sự
Ngày 13 tháng 8 năm 2013, tại phiên họp chuyên đề của Chính phủ về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp đã thay mặt Ban soạn thảo báo cáo để Chính phủ thảo luận và cho ý kiến về mục tiêu, quan điểm và một số định hướng cơ bản trong việc sửa đổi Bộ luật dân sự. Nghị quyết số 101/NQ-CP ngày 20 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ về phiên họp chuyên đề này đã nhấn mạnh:
“Việc sửa đổi Bộ luật dân sự lần này cần bảo đảm thể chế hóa đầy đủ các quan điểm của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước; cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phù hợp với Hiến pháp; có tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt Nam; bảo đảm nguyên tắc Bộ luật dân sự là Bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật tư, theo đó Bộ luật quy định các vấn đề có tính nguyên tắc, các luật chuyên ngành quy định về các vấn đề có tính chuyên ngành”.
Trên cơ sở Nghị quyết này của Chính phủ, Ban soạn thảo đã tổ chức xây dựng dự thảo Bộ luật dân sự và hồ sơ dự án Bộ luật.
c) Tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia về pháp luật dân sự và người dân
Cơ quan chủ trì soạn thảo đã tổ chức họp Hội đồng khoa học Bộ, nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo khoa học để lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, chuyên gia trong nước, nước ngoài về mục tiêu, quan điểm và những định hướng lớn sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự; tổ chức các hoạt động khảo sát ở một số địa phương trong nước và nước ngoài (Nhật, CHLB Đức, Pháp, Nga); nghiên cứu, biên dịch tài liệu liên quan đến pháp luật dân sự của một số nước, nhất là các nước chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế như Nga… Dự thảo Bộ luật dân sự đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để lấy ý kiến nhân dân, gửi xin ý kiến bằng văn bản của các Bộ, ngành, tổ chức có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Ngày 02 tháng 7 năm 2014, Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 của Chính phủ đã họp để cho ý kiến về dự án Bộ luật dân sự. Ngày 08 tháng 7 năm 2014, Hội đồng thẩm định liên ngành đã tổ chức thẩm định dự án Bộ luật. Ý kiến của Hội đồng tư vấn thẩm định của Chính phủ và Hội đồng thẩm định liên ngành đã được Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý trong dự thảo Bộ luật trình Chính phủ.
Tại Phiên họp thường kỳ ngày 31 tháng 7 năm 2014, Chính phủ đã xem xét và thống nhất về mục đích, yêu cầu, phạm vi điều chỉnh và những nội dung cơ bản của dự án Bộ luật dân sự, đồng thời đã cho nhiều ý kiến chỉ đạo để Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét (Nghị quyết số 56/NQ-CP ngày 04 tháng 8 năm 2014 của Chính phủ).
Ngày 15 tháng 8 năm 2014, Chính phủ đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội Tờ trình số 287/TTr-CP về dự án Bộ luật dân sự, kèm theo dự thảo Bộ luật dân sự và các tài liệu theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã họp thẩm tra về dự án Bộ luật và đã có Báo cáo thẩm tra sơ bộ số 2703/BC-UBPL13 ngày 20 tháng 9 năm 2014. Ngày 22 tháng 9 năm 2014, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Bộ luật dân sự.
Ngày 13 tháng 9 năm 2014, Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương cũng đã họp, cho ý kiến về mục tiêu, quan điểm và một số vấn đề lớn của dự án Bộ luật dân sự.
Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương, Báo cáo Thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Bộ, ngành và chuyên gia có liên quan, Chính phủ đã tiếp thu, chỉnh lý Tờ trình dự án Bộ luật dân sự, dự thảo Bộ luật và Hồ sơ dự án Bộ luật để trình Quốc hội.
III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN BỘ LUẬT
1. Mục tiêu
Việc sửa đổi, bổ sung lần này là nhằm xây dựng Bộ luật dân sự thực sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm giữa các bên tham gia; ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành.
2. Quan điểm chỉ đạo
Bộ luật dân sự là một đạo luật có ý nghĩa to lớn không chỉ về mặt bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phát triển kinh tế - xã hội mà còn cả về mặt xây dựng pháp luật. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật này đã được thực hiện trên cơ sở quán triệt những quan điểm chỉ đạo sau đây:
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự, cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đã được ghi nhận trong trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và đặc biệt là trong Hiến pháp năm 2013;
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, hạn chế trong thực tiễn thi hành để bảo đảm Bộ luật dân sự thực sự phát huy được ba vai trò cơ bản là: (1) Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của các các cá nhân, pháp nhân, đặc biệt là trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của bên yếu thế, bên thiện chí trong quan hệ dân sự; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ dân sự; (2) Tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự thông thoáng, ổn định trong giao lưu dân sự, góp phần phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (3) Là công cụ pháp lý hữu hiệu để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các thiết chế dân chủ trong xã hội, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
Thứ ba, xây dựng Bộ luật dân sự thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm; có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác, đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự;
Thứ tư, bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực tiễn của pháp luật dân sự, cũng như các giá trị văn hóa, tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp của Việt Nam; có sự tham khảo kinh nghiệm xây dựng Bộ luật dân sự của một số nước, nhất là các nước có truyền thống pháp luật tương đồng với Việt Nam.
IV. PHẠM VI SỬA ĐỔI, BỐ CỤC VÀ NHỮNG NỘI DUNG MỚI, CHỦ YẾU CỦA DỰ THẢO BỘ LUẬT
1. Phạm vi sửa đổi
Căn cứ vào mục tiêu, quan điểm xây dựng dự án Bộ luật như đã báo cáo ở trên, phạm vi sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự lần này được xác định là cơ bản và toàn diện. Trên cơ sở phạm vi sửa đổi như vậy, dự thảo Bộ luật có tổng số 710 điều, được bố cục thành 6 phần, 29 chương. So với Bộ luật dân sự năm 2005, dự thảo Bộ luật giữ nguyên 265 điều, sửa đổi 298 điều, bổ sung 174 điều, bãi bỏ 147 điều.
2. Bố cục
Dự thảo Bộ luật gồm 6 phần:
- Phần thứ nhất: Quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 177) quy định về phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc cơ bản, áp dụng pháp luật dân sự; xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự; địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự; tài sản; giao dịch dân sự; đại diện; thời hạn và thời hiệu.
- Phần thứ hai: Quyền sở hữu và các vật quyền khác (từ Điều 178 đến Điều 301) quy định về căn cứ xác lập và thời điểm xác lập quyền sở hữu, các vật quyền khác và hiệu lực đối kháng với người thứ ba; bảo vệ, hạn chế quyền sở hữu và các vật quyền khác; quyền sở hữu, quyền địa dịch, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền ưu tiên.
- Phần thứ ba: Nghĩa vụ và hợp đồng (từ Điều 302 đến Điều 629) quy định về căn cứ phát sinh; thực hiện nghĩa vụ; các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; trách nhiệm dân sự; giao kết, thực hiện và chấm dứt hợp đồng; các hợp đồng thông dụng; thực hiện công việc không có ủy quyền; nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Phần thứ tư: Thừa kế (từ Điều 630 đến Điều 686) quy định chung về thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, thanh toán và phân chia di sản.
- Phần thứ năm: Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (từ Điều 687 đến Điều 708) bao gồm quy định chung, pháp luật áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân, về quan hệ tài sản, nhân thân có yếu tố nước ngoài.
- Phần thứ sáu: Điều khoản thi hành (từ Điều 709 đến Điều 710) quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp.
3. Những nội dung mới, chủ yếu của dự thảo Bộ luật
a) Về phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự (Điều 1)
Bộ luật dân sự quy định về những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các quan hệ khác hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự).
b) Về nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 2 - Điều 9)
Để bảo đảm thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự, góp phần hình thành chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, dự thảo Bộ luật quy định 8 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, bao gồm: (1) Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự; (2) Nguyên tắc bình đẳng; (3) Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; (4) Nguyên tắc thiện chí, trung thực; (5) Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp; (6) Nguyên tắc tôn trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; (7) Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự; (8) Nguyên tắc hòa giải.
Việc quán triệt các nguyên tắc này góp phần bảo đảm tất cả quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp và pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
c) Về áp dụng pháp luật dân sự (Điều 10 - Điều 13)
Để tạo cơ chế pháp lý đầy đủ cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, phát huy được vị trí, vai trò của Bộ luật dân sự, bảo đảm sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật dân sự và đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế và trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành, dự thảo Bộ luật dân sự quy định về việc áp dụng pháp luật dân sự, theo hướng:
- Bộ luật dân sự được xác định là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân sự; các luật khác điều chỉnh quan hệ trong các lĩnh vực dân sự cụ thể không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự; trường hợp trong các luật này không có quy định thì quy định của Bộ luật này được áp dụng;
- Điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế phù hợp với Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam được áp dụng trực tiếp hoặc theo nguyên tắc tương tự pháp luật để giải quyết các quan hệ dân sự;
- Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy định thì áp dụng tập quán; trường hợp không có tập quán thì áp dụng tương tự pháp luật; trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự.
d) Về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự (Điều 14 - Điều 22)
Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền dân sự, dự thảo Bộ luật bổ sung các nguyên tắc chung về xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự, trong đó:
 - Cá nhân, pháp nhân thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình nhưng không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và không được vượt quá giới hạn thực hiện quyền dân sự được quy định tại Bộ luật này;
- Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng quyền dân sự để gây thiệt hại cho người khác; để vi phạm các nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của mình theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; để hạn chế cạnh tranh hoặc để thực hiện mục đích khác trái pháp luật;
- Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân. Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài. Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định về áp dụng tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng được áp dụng để xem xét, giải quyết.
đ) Về chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự (Điều 23 - Điều 119)
Dự thảo Bộ luật quy định cụ thể về địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân, việc tham gia quan hệ dân sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa phương, hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân, trong đó:
- Về cá nhân, dự thảo Bộ luật đã bổ sung nhiều cơ chế pháp lý mới, hợp lý để bảo vệ tốt hơn quyền của những người yếu thế về năng lực hành vi dân sự, đặc biệt là chế độ giám hộ đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của mình. Về quyền nhân thân, bên cạnh việc quy định các quyền nhân thân cơ bản nhất của cá nhân thì dự thảo Bộ luật bổ sung nguyên tắc: Ngoài các quyền nhân thân được quy định tại Bộ luật dân sự, các quyền con người, quyền nhân thân khác về dân sự đều được Nhà nước công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật;
- Về pháp nhân, để cụ thể hóa nội dung, tinh thần của Hiến pháp về quyền lập hội, quyền tự do kinh doanh, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng… và để góp phần “hiện thực hóa” địa vị pháp lý của chủ thể này trong các quan hệ dân sự, dự thảo Bộ luật quy định mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác. Pháp nhân phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; việc đăng ký pháp nhân phải được công bố công khai. Đồng thời, để bao quát, dự báo được sự đa dạng của pháp nhân trong giao lưu dân sự, dự thảo Bộ luật quy định 2 loại pháp nhân cơ bản, đó là: (i) Pháp nhân thương mại (pháp nhân hoạt động vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận); (ii) Pháp nhân phi thương mại (pháp nhân hoạt động không vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và không phân chia lợi nhuận cho các thành viên);
 - Về sự tham gia của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, các cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương trong quan hệ dân sự, dự thảo Bộ luật quy định, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương bình đẳng với chủ thể khác là cá nhân, pháp nhân khi tham gia quan hệ dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật này. Đồng thời, dự thảo Bộ luật quy định những nội dung cơ bản về địa vị pháp lý, đại diện tham gia quan hệ dân sự, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự và về trách nhiệm trong quan hệ dân sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài;
- Về sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự, dự thảo Bộ luật quy định hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thông qua cá nhân là người đại diện hoặc là thành viên của mình theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. Các thành viên có thể thỏa thuận cử người đại diện tham gia, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự vì lợi ích chung. Địa vị pháp lý của hộ gia đình sử dụng đất được xác định theo quy định của pháp luật về đất đai. Đồng thời, dự thảo Bộ luật quy định những nội dung cơ bản về tài sản chung, trách nhiệm dân sự của thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
e) Về tài sản (Điều 120 - Điều 130)
Để bảo đảm tính bao quát, minh bạch, công khai, huy động và phát huy được hết các nguồn lực vật chất trong xã hội, dự thảo Bộ luật đã bổ sung quy định, theo đó, tài sản bao gồm bất động sản và động sản; tài sản có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác. Bất động sản phải được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và Luật đăng ký tài sản. Các thông tin về tài sản đã đăng ký phải được công khai. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể là đối tượng trong quan hệ dân sự, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền khác, trong đó, quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ được quy định trong Bộ luật này và pháp luật về sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất được quy định trong Bộ luật này và Luật đất đai.
g) Về giao dịch dân sự (Điều 131 - Điều 145)
Dự thảo Bộ luật đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến các quy định về giao dịch dân sự theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền tự do thể hiện ý chí, sự an toàn pháp lý, sự ổn định của giao dịch, quyền, lợi ích của bên thiện chí, bên ngay tình, cụ thể như: (1) Giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức nhưng không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người khác và chủ thể giao dịch đã chuyển giao vật, tiền hoặc đã thực hiện công việc thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực; trường hợp này, theo yêu cầu của một hoặc các bên, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm hoàn tất thủ tục đối với giao dịch đó; (2) Quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu cũng được sửa đổi để bảo đảm công bằng, phù hợp hơn với quyền, lợi ích của chủ thể xác lập giao dịch; (3) Quyền của người thứ ba ngay tình được bảo vệ triệt để hơn theo nguyên tắc, trong trường hợp đối tượng của giao dịch là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch là do bị chiếm đoạt bất hợp pháp, ngoài ý chí của chủ sở hữu; việc chuyển giao tài sản thông qua đấu giá hoặc căn cứ theo bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền cũng được bảo vệ...
h) Về đại diện (Điều 146 - Điều 158)
Dự thảo Bộ luật đã có một số sửa đổi, bổ sung quy định về đại diện nhằm tạo điều kiện pháp lý tốt hơn trong việc trợ giúp cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ các quyền dân sự của mình và hạn chế rủi ro pháp lý trong các quan hệ dân sự. Cụ thể là, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người được xác định theo điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và pháp nhân có thể là người đại diện theo ủy quyền cho các chủ thể khác; đại diện theo pháp luật có quyền nhân danh bên được đại diện xác lập, thực hiện hành vi pháp lý phù hợp với quyền, nghĩa vụ của đại diện theo pháp luật. Trường hợp pháp nhân có nhiều đại diện theo pháp luật thì mỗi người có quyền đại diện cho pháp nhân phù hợp với quyền, nghĩa vụ của mình. Giao dịch dân sự do bên đại diện xác lập, thực hiện với bên thứ ba phù hợp với phạm vi quyền đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của bên được đại diện. Bên đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết tùy thuộc hoàn cảnh để đạt được mục đích phù hợp với phạm vi quyền đại diện…
i) Về thời hiệu (Điều 164 - Điều 177)
Để tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp và pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm kịp thời, nâng cao trách nhiệm của Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền khác trong tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, sự ổn định của các quan hệ dân sự  và để phù hợp hơn với bản chất pháp lý của thời hiệu, dự thảo Bộ luật quy định về thời hiệu theo nguyên tắc: cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu của cá nhân, pháp nhân như quy định hiện hành, tòa án hoặc trọng tài vẫn thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự. Người được hưởng quyền dân sự có quyền từ chối việc hưởng quyền, người được miễn trừ nghĩa vụ dân sự có quyền từ chối việc miễn trừ nghĩa vụ, trừ trường hợp việc từ chối đó có mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ hoặc vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội.
k) Về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác (Điều 179)
Để bảo đảm thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác, dự thảo Bộ luật quy định: (1) Việc xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản, trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác; (2) Trường hợp tài sản đã được chuyển giao trước thời điểm hợp đồng được giao kết thì quyền sở hữu và vật quyền khác được xác lập kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, trừ trường hợp luật hoặc hợp đồng có quy định khác; (3) Trường hợp luật quy định việc chuyển giao vật phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì thời điểm xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký, trừ trường hợp luật khác có quy định khác.
l) Về chiếm hữu (Điều 192 - Điều 200)
Dự thảo Bộ luật bổ sung chế định chiếm hữu như là tình trạng pháp lý về việc cá nhân, pháp nhân nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Theo chế định này, người chiếm hữu tài sản được suy đoán là ngay tình; người nào cho rằng, người chiếm hữu là không ngay tình thì phải chứng minh. Người nào có tranh chấp với người chiếm hữu thì phải chứng minh rằng, người chiếm hữu không có quyền. Trường hợp một người có yêu cầu về quyền sở hữu hoặc các vật quyền khác đối với tài sản đang do người khác chiếm hữu thì cơ quan có thẩm quyền chỉ thụ lý giải quyết với điều kiện người đó phải chấm dứt hành vi vi phạm quyền của người chiếm hữu và khôi phục lại tình trạng ban đầu (nếu có). Quy định này sẽ góp phần bảo đảm trật tự xã hội, sự ổn định của giao dịch, giá trị kinh tế của tài sản, sự thiện chí trong quan hệ dân sự.
m) Về hình thức sở hữu (Điều 206, Điều 219 - Điều 242)
Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và trên cơ sở vận dụng nguyên tắc việc xác định các hình thức sở hữu cần phải dựa vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu, dự thảo Bộ luật quy định: trong Bộ luật dân sự, hình thức sở hữu bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung. Sở hữu toàn dân là sở hữu đối với tài sản công, bao gồm đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý. Sở hữu riêng là sở hữu của một chủ thể, bao gồm cá nhân, pháp nhân. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với một tài sản.
n) Về quyền của cá nhân, pháp nhân không phải là chủ sở hữu tài sản (Các vật quyền khác, Điều 264 - Điều 301)
Bên cạnh quyền sở hữu, dự thảo Bộ luật ghi nhận cụ thể một số quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản như: (1) Quyền địa dịch, (2) Quyền hưởng dụng, (3) Quyền bề mặt, (4) Quyền ưu tiên. Sự bổ sung này có ý nghĩa quan trọng nhằm thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân; về xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế và điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; về việc Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác yên tâm đầu tư, sản xuất, kinh doanh; về nguyên tắc tài sản hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân đều được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa... Cụ thể là:
- Về quyền địa dịch, dự thảo Bộ luật quy định đây là một quyền được thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản chịu địa dịch) nhằm phục vụ cho việc khai thác một bất động sản khác (gọi là bất động sản hưởng địa dịch). Địa dịch có thể được xác lập theo địa thế tự nhiên, thỏa thuận hoặc theo luật định. Quyền địa dịch được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm nhu cầu hợp lý của việc khai thác bất động sản hưởng địa dịch, phù hợp với mục đích sử dụng bất động sản. Chủ sở hữu bất động sản hưởng dịa địch không được sử dụng quyền địa dịch trên bất động sản chịu địa dịch vượt quá nhu cầu hợp lý trong việc khai thác bất động sản hưởng địa dịch. Chủ sở hữu bất động sản chịu địa dịch không được thực hiện các hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện quyền địa dịch trở nên khó khăn, dẫn đến việc không bảo đảm được nhu cầu hợp lý về sử dụng, khai thác bất động sản hưởng địa dịch...;
- Về quyền hưởng dụng, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, quyền hưởng dụng là một quyền mà chủ thể có quyền đó được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ vật thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác, với điều kiện việc thực hiện quyền này không được làm thay đổi tính chất, tính năng sử dụng của vật đó. Đối tượng của quyền hưởng dụng có thể là bất động sản và động sản. Quyền hưởng dụng được xác lập theo quy định của luật, theo thoả thuận hoặc hành vi pháp lý đơn phương. Thời hạn của quyền hưởng dụng do các bên thỏa thuận hoặc do luật định nhưng tối đa chỉ đến hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên;
- Về quyền bề mặt, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, quyền bề mặt là quyền của chủ thể được sử dụng mặt đất, khoảng không trên mặt đất và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó thuộc về người khác (Trong trường hợp bề mặt là mặt nước cũng áp dụng theo quy định này). Quyền bề mặt được xác lập theo thỏa thuận, theo cam kết đơn phương hoặc theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. Đối tượng của quyền bề mặt có thể là vật cụ thể gắn với đất hoặc là phần không gian, theo đó vật gắn với đất sẽ được tạo lập. Vật cụ thể gắn với đất có thể là vật nằm trên bề mặt đất, nằm dưới mặt đất hoặc phần không gian trên mặt đất. Chủ thể quyền bề mặt có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với vật đó. Trong trường hợp đối tượng của quyền là phần không gian mà trong đó các vật gắn với đất có thể được tạo lập thì chủ sở hữu phần không gian có quyền xây dựng, trồng cây, canh tác và có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với vật mới được tạo ra;
- Về quyền ưu tiên, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, quyền ưu tiên (còn gọi là đặc quyền lấy trước) là quyền của chủ thể có quyền lợi trong một quan hệ pháp luật được ưu tiên thanh toán trước các chủ thể có quyền khác. Quyền ưu tiên là một trong những loại vật quyền luật định, chỉ phát sinh trong một số trường hợp do luật quy định khi đáp ứng một số điều kiện nhất định. Đây là quyền đương nhiên được pháp luật bảo vệ, không phụ thuộc ý chí của các chủ thể khác;
- Ngoài các vật quyền nêu trên được quy định trong Bộ luật dân sự thì các luật khác có liên quan cũng có thể quy định về các loại vật quyền khác theo yêu cầu của thực tiễn vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
o) Về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự (Điều 374 - Điều 386)
Dự thảo Bộ luật sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ nhằm bảo đảm sự an toàn, thông thoáng, lẽ công bằng trong các quan hệ dân sự cũng như trong giải quyết vụ việc dân sự, cụ thể là:
- Cá nhân, pháp nhân không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp chủ thể này có căn cứ được miễn trừ trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật dân sự;
- Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để hạn chế thiệt hại có thể gây ra cho mình. Trong trường hợp người bị thiệt hại chậm trễ trong việc áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để giảm thiểu thiệt hại cho mình thì người gây thiệt hại có quyền yêu cầu giảm mức bồi thường tương ứng với mức thiệt hại mà lẽ ra người bị thiệt hại có thể hạn chế được;
- Trường hợp việc không thực hiện đúng nghĩa vụ và thiệt hại gây ra là do một phần lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại có quyền yêu cầu giảm mức bồi thường tuỳ theo mức độ lỗi của người bị thiệt hại. Trong trường hợp bên vi phạm chứng minh được việc không thực hiện đúng nghĩa vụ là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc luật có quy định khác.
p) Về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 320 - Điều 373)
Dự thảo Bộ luật ghi nhận đầy đủ, rõ ràng và hợp lý hơn về những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sau đây: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh. Ví dụ, về cầm cố, thế chấp thì dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, bên cầm cố, bên thế chấp có quyền bán, trao đổi, tặng cho, thay thế tài sản cầm cố, thế chấp nếu có thỏa thuận với bên nhận cầm cố, nhận thế chấp hoặc tài sản cầm cố, thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc thuộc trường hợp khác theo quy định của luật. Trường hợp tài sản cầm cố, thế chấp được bán, trao đổi, tặng cho, thay thế thì bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng cho tài sản có nghĩa vụ phải giao tài sản theo yêu cầu của bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp. Trường hợp bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng cho, bên thuê, bên mượn không giao tài sản thì bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng cho, bên thuê, bên mượn phải giao tài sản theo thủ tục tố tụng rút gọn. 
q) Về quy định chung về hợp đồng (Điều 407 - Điều 450)
Dự thảo Bộ luật quy định các điều khoản chung về hợp đồng, định hướng cho việc xây dựng các quy định về hợp đồng trong các luật khác có liên quan và đủ để áp dụng trong trường hợp các luật khác có liên quan thiếu quy định về hợp đồng. Ngoài ra, một số quy định mới phù hợp với thông lệ quốc tế, với thực tiễn nước ta đã được bổ sung, nhất là các quy định về điều kiện giao dịch chung, điều chỉnh hợp đồng khi có thay đổi hoàn cảnh, phụ lục hợp đồng, hủy bỏ và hậu quả của hủy bỏ hợp đồng,.... Về điều kiện giao dịch chung, dự thảo Bộ luật thừa nhận về điều kiện giao dịch chung theo hướng, đó là những quy định do bên đề nghị giao kết hợp đồng công bố áp dụng chung cho các bên tham gia hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận toàn bộ quy định đã được bên đề nghị đưa ra. Nếu trong điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi của bên kia thì quy định này không có hiệu lực. Dự thảo Bộ luật cũng cho phép trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi dẫn đến quyền, lợi ích của một trong các bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì cho phép các bên điều chỉnh hợp đồng theo những điều kiện được quy định; một bên chỉ có thể hủy bỏ hợp đồng nếu bên kia vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật quy định khác.
r) Về các hợp đồng thông dụng (Điều 451 - Điều 594)
Dự thảo Bộ luật chỉ quy định về những hợp đồng mang tính đặc trưng và đại diện cho quan hệ pháp luật dân sự. So với Bộ luật dân sự năm 2005, dự thảo Bộ luật không quy định về hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng thuê nhà ở, hợp đồng bảo hiểm. Những hợp đồng này đã được quy định trong Luật nhà ở, Luật kinh doanh bảo hiểm. Bên cạnh đó, dự thảo Bộ luật cũng bổ sung một loại hợp đồng mới là hợp đồng hợp tác để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về hợp tác trong sản xuất, kinh doanh. Đối với một số hợp đồng cơ bản như hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê tài sản... thì dự thảo Bộ luật bổ sung nhiều quy định để bảo đảm các quy định này có thể áp dụng cho các hợp đồng có liên quan và cũng bao quát được những dạng thức hợp đồng phái sinh, đặc thù có thể phát sinh trong tương lai, cụ thể:
Về mua bán tài sản, dự thảo Bộ luật quy định, tài sản được quy định tại Bộ luật này đều có thể là đối tượng của hợp đồng mua bán. Trong trường hợp theo quy định của luật, tài sản bị cấm hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thì tài sản bán phải phù hợp với các quy định đó. Tài sản bán phải thuộc sở hữu của người bán hoặc người bán có quyền bán tài sản đó. Khi các bên không có thoả thuận, thỏa thuận không rõ ràng về chất lượng tài sản mua bán thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn đã được công bố theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo tiêu chuẩn ngành nghề. Trong trường hợp không có các tiêu chuẩn này thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn thông thường hoặc theo tiêu chuẩn riêng phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng và theo quy định của Luật bảo vệ người tiêu dùng...;
Về vay tài sản, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, lãi suất trong hợp đồng vay do các bên thỏa thuận hoặc do luật định. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với loại vay tương ứng, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất thì lãi suất được xác định theo lãi suất luật định, nếu không có lãi suất luật định thì coi như hợp đồng vay không có lãi, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác;
Về hợp đồng hợp tác, dự thảo Bộ luật quy định, hợp đồng hợp tác là hợp đồng, theo đó nhiều cá nhân từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thỏa thuận về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm. Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản và được công chứng hoặc chứng thực.
s) Về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Điều 605 - Điều 629)
Dự thảo Bộ luật quy định người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của bên gây thiệt hại để thay thế cho quy định hiện hành đang tạo gánh nặng chứng minh của người bị thiệt hại. Theo đó, người nào có hành vi trái pháp luật xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Dự thảo Bộ luật bổ sung quy định, theo đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản có nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại về những thiệt hại do tài sản của mình gây ra. 
t) Về thời hiệu thừa kế (Điều 644)
Để khắc phục những bất cập về thời hiệu khởi kiện thừa kế trong Bộ luật dân sự hiện hành, phù hợp với quyền của người thừa kế, người khác có liên quan đến di sản và những đặc thù về văn hóa, tính chất của di sản, dự thảo Bộ luật quy định thời hiệu thừa kế theo hướng:
Thứ nhất, thời hạn yêu cầu chia di sản là ba mươi năm đối với bất động sản, mười năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này mà không có yêu cầu chia di sản thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Thứ hai, trường hợp không có yêu cầu chia di sản và không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
- Trường hợp di sản đang được người khác chiếm hữu hoặc được lợi một cách ngay tình, liên tục, công khai thì người này được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đối với quyền sở hữu có đối tượng là bất động sản hoặc động sản được quy định tại Bộ luật dân sự;
- Trường hợp không có người khác chiếm hữu hoặc được lợi về di sản hoặc có người này nhưng việc chiếm hữu của họ không có căn cứ pháp luật, không ngay tình thì di sản thuộc về Nhà nước.
u) Về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 687 - Điều 708)

Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được dự thảo Bộ luật quy định tại Phần thứ năm với những nội dung mới, chủ yếu như sau:

- Về phạm vi áp dụng, trong trường hợp có quy định khác nhau giữa Phần này và luật khác có liên quan về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì áp dụng quy định của luật khác có liên quan với điều kiện các quy định của luật đó không trái với các nguyên tắc xác định và áp dụng pháp luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định trong Bộ luật dân sự;

- Về nguyên tắc xác định và áp dụng pháp luật, nguyên tắc các bên được lựa chọn pháp luật áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ các trường hợp đã có quy định cụ thể tại Phần này hoặc luật khác có liên quan. Trong trường hợp các bên không lựa chọn pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan của Việt Nam không có quy định về việc xác định pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước nơi có quan hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự đó được áp dụng...;
- Bên cạnh đó, dự thảo Bộ luật sửa đổi, bổ sung làm phong phú hơn hệ thuộc xác định pháp luật áp dụng, làm rõ thứ tự ưu tiên áp dụng các hệ thuộc, đặc biệt làm hệ thuộc luật áp dụng đối với hợp đồng, thừa kế, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các hệ thuộc liên quan đến nhân thân theo hướng tiếp thu có chọn lọc các tiêu chuẩn, chuẩn mực pháp lý chung đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi.
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN QUỐC HỘI
Trong quá trình soạn thảo, góp ý, đa số ý kiến thể hiện sự tán thành với nhiều nội dung của dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Tuy nhiên, trong dự thảo Bộ luật có một số vấn đề mới, quan trọng, có vấn đề còn có ý kiến khác nhau, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội như sau:
1. Về phạm vi điều chỉnh và bố cục của dự thảo Bộ luật dân sự
So với Bộ luật dân sự hiện hành, dự thảo Bộ luật không tái kết cấu Phần “Quy định về chuyển quyền sử dụng đất” và Phần “Quyền sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ” thành các phần riêng trong dự thảo Bộ luật dân sự. Các quy định về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến tài sản, quyền sở hữu, vật quyền khác, hợp đồng và quyền nhân thân đã được quy định trong các chế định tương ứng của dự thảo Bộ luật mà không quy định lại những nội dung đã được quy định cụ thể trong Luật đất đai năm 2013; Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật chuyển giao công nghệ và các luật khác có liên quan.
Việc xác định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự như trên giúp khắc phục được tình trạng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật về cùng một vấn đề. Mặt khác, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ là những lĩnh vực thường có nhiều biến động trong thực tiễn thi hành. Do đó, việc không kết cấu những vấn đề này thành phần riêng sẽ giúp nhiều quy định của Bộ luật dân sự tránh được tình trạng bị coi là lạc hậu so với quy định của các luật khác có liên quan.[3] Đây cũng là biện pháp góp phần thực hiện một trong những quan điểm chỉ đạo quan trọng trong việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự lần này là xây dựng Bộ luật dân sự thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật dân sự, có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội vốn rất năng động thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự, đồng thời bảo đảm được tính ổn định của Bộ luật này.
Trên cơ sở phạm vi điều chỉnh như vậy, dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) được bố cục thành 6 phần như sau:
Phần thứ nhất: Quy định chung;
Phần thứ hai: Quyền sở hữu và vật quyền khác;
Phần thứ ba: Nghĩa vụ và hợp đồng;
Phần thứ tư: Thừa kế;
Phần thứ năm: Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài;
Phần thứ sáu: Điều khoản thi hành.
2. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Từ Điều 2 đến Điều 9)
Dự thảo Bộ luật dân sự quy định 8 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, bao gồm: (1) Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự; (2) Nguyên tắc bình đẳng; (3) Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; (4) Nguyên tắc thiện chí, trung thực; (5) Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp; (6) Nguyên tắc tôn trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; (7) Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự; (8) Nguyên tắc hòa giải.
Quy định như trên được dựa trên các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, thể chế hóa Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và cụ thể hóa nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 (các điều 13, 14, 15, 16, 32, 33, 51...) về công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân  cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
Thứ hai, để bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự, đặc biệt là để bảo đảm tính thống nhất, logic, đồng bộ của các luật khác trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực hoạt động cụ thể, góp phần hình thành chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân trong đời sống dân sự;
Thứ ba, góp phần tạo cơ chế pháp lý đầy đủ hơn cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự, đặc biệt là trong các trường hợp giải quyết vụ, việc dân sự mà không có quy định của luật, không có tập quán và không áp dụng được tương tự pháp luật.
3. Trách nhiệm của Tòa án và cơ quan có thẩm quyền khác trong việc bảo vệ quyền dân sự (Điều 21)
Dự thảo Bộ luật dân sự quy định cụ thể cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân thông qua Tòa án và cơ quan có thẩm quyền khác, theo đó:
“1. Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.
Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài.
Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án.
2. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 12 và  Điều 13 của Bộ luật này được áp dụng để xem xét, giải quyết”.
Quy định như trên được dựa trên các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, quy định này phù hợp với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 14); về trách nhiệm của Chính phủ, Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân (khoản 6 Điều 96, khoản 3 Điều 102), theo đó  “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”;
Thứ hai, theo nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước phải có trách nhiệm tạo cơ chế pháp lý đầy đủ để mọi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp, pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, việc bổ sung quy định nêu trên là cần thiết nhằm góp phần thực hiện trách nhiệm này của Nhà nước. Mặt khác, trong thời gian qua, do thiếu quy định này của luật nên không ít trường hợp Tòa án đã phải từ chối thụ lý và giải quyết các yêu cầu chính đáng của cá nhân, pháp nhân;
Thứ ba, nguyên tắc áp dụng tập quán và quy định tương tự của pháp luật trong trường hợp không có quy định của luật cũng đã được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại chưa có quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc áp dụng tập quán và quy định tương tự của pháp luật để giải quyết các vụ việc dân sự. Vì vậy, việc quy định như trong dự thảo Bộ luật là cần thiết;
Thứ tư, nghiên cứu thực tiễn lập pháp của một số nước cho thấy, trong Bộ luật dân sự của các nước này đều có quy định, theo đó, trong trường hợp không có quy định của luật thì thẩm phán phải vận dụng tất cả các biện pháp hợp pháp để giải quyết yêu cầu của người dân mà không được phép từ chối giải quyết với lý do không có quy định của pháp luật để áp dụng.
4. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu (Điều 145)
Về vấn đề này, có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Bộ luật dân sự cần có quy định cụ thể hơn về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu có đối tượng là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, theo hướng: trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì đối với người thứ ba, giao dịch này không vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết rằng tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp, ngoài ý chí của chủ sở hữu. Trường hợp tài sản chưa được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì người thứ ba chỉ được bảo vệ khi nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.  
Loại ý kiến này dựa trên các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, để bảo đảm lợi ích của người thiện chí, ngay tình và để bảo đảm sự ổn định của các quan hệ dân sự thì các Bộ luật dân sự trên thế giới đều ghi nhận việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự (Bộ luật dân sự năm 1995, 2005 của nước ta cũng đã quy định về vấn đề này). Tuy nhiên, việc bảo vệ người thứ ba ngay tình theo nguyên tắc nào thì lại phụ thuộc vào chính sách pháp luật của từng nước. Nhưng nhìn chung, những nước quy định thời điểm xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, vật quyền khác đối với bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu được tính từ thời điểm đăng ký thì thường lựa chọn chính sách “hiệu lực công tín” tức là, nếu người thứ ba ngay tình căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà xác lập giao dịch thì người thứ ba ngay tình được bảo vệ;
Thứ hai, Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 168, Điều 439, Điều 692), Luật đất đai năm 2013 (khoản 3 Điều 188) quy định thời điểm xác lập, chấm dứt quyền sở hữu đối với bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu được tính từ thời điểm đăng ký. Dự thảo Bộ luật dân sự (Điều 179) về cơ bản kế thừa quy định của Bộ luật dân sự hiện hành và quy định của Luật đất đai năm 2013. Do đó, việc quy định theo hướng bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là phù hợp với nguyên tắc đăng ký bất động sản hiện nay, góp phần bảo đảm lợi ích chính đáng của người thiện chí, ngay tình, cũng như sự ổn định của các quan hệ dân sự;
Thứ ba, bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp này không có nghĩa là không tôn trọng và không bảo vệ quyền của chủ sở hữu. Dự thảo Bộ luật cũng đã có quy định, theo đó, trường hợp tài sản chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng được chuyển giao cho người thứ ba không ngay tình thì chủ sở hữu vẫn có quyền kiện đòi tài sản từ người thứ ba. Trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền và được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu bồi hoàn giá trị tài sản, bồi thường thiệt hại;
Thứ tư, việc quy định theo hướng bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp này còn góp phần bảo đảm và nâng cao tính minh bạch, công khai của nền kinh tế được vận hành theo quy luật thị trường thông qua việc: (1) Khuyến khích chủ sở hữu, người có vật quyền khác để hạn chế rủi ro pháp lý, bảo vệ được quyền, lợi ích của mình thì phải thực hiện việc đăng ký tài sản một cách kịp thời, đúng pháp luật; (2) Buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đăng ký tài sản phải có trách nhiệm hơn trong thực thi công vụ, đặc biệt là phải bảo đảm tính chính xác, minh bạch, công khai trong hoạt động đăng ký tài sản…
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, cần tiếp tục quy định nguyên tắc bảo vệ người thứ ba ngay tình và bảo vệ chủ sở hữu như quy định tại Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005, bởi vì, nguyên tắc bảo vệ chủ sở hữu trong trường hợp này đã được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Theo quy định tại Điều 138 Bộ luật dân sự hiện hành, trong trường hợp giao dịch dân sự bị Tòa án tuyên bố vô hiệu nhưng tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu và chủ sở hữu được nhận lại tài sản của mình, trừ trường hợp: a) Người thứ ba nhận được tài sản thông qua bán đấu giá; b) Người thứ ba giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. Như vậy, chỉ trong hai trường hợp này thì người thứ ba mới không phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Nếu quy định như loại ý kiến thứ nhất, người thứ ba ngay tình sẽ được bảo vệ trong mọi trường hợp và như vậy chủ sở hữu của tài sản lại không được bảo vệ. Vì vậy, cần cân nhắc thêm về vấn đề này, đặc biệt là trong bối cảnh việc đăng ký bất động sản đang còn có nhiều bất cập như hiện nay.
Dự thảo Bộ luật thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất.
5. Về thời hiệu (Từ Điều 164 đến Điều 177)
Về vấn đề này, có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Bộ luật dân sự cần quy định về thời hiệu theo nguyên tắc: cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu của cá nhân, pháp nhân như quy định hiện hành, tòa án hoặc trọng tài phải thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự.
Loại ý kiến này dựa vào các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, quy định này là phù hợp với bản chất pháp lý của thời hiệu, tạo công cụ pháp lý tốt hơn để các chủ thể căn cứ vào đó mà bảo vệ các quyền dân sự của mình. Việc quy định thời hiệu khởi kiện như hiện hành tuy có tác dụng tạo thuận lợi cho Tòa án trong việc chứng minh, giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời tạo căn cứ để Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự mà không phải đưa ra phán quyết cụ thể để xác định quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ, nhưng lại có hạn chế là chưa giúp giải quyết được một cách triệt để và dứt điểm các tranh chấp phát sinh. Bên cạnh đó, khi không được Nhà nước bảo vệ quyền lợi thì các chủ thể có thể sử dụng những biện pháp hành xử ngoài vòng pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội;
Thứ hai, quy định này là để hạn chế tình trạng Tòa án có thể căn cứ vào thời hiệu mà từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc, góp phần cụ thể hóa và triển khai thi hành khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, theo đó, “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”;
Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước cho thấy, Bộ luật dân sự của các nước này cũng chỉ quy định thời hiệu hưởng quyền, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ mà không quy định thời hiệu khởi kiện.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, nên tiếp tục kế thừa quy định về thời hiệu khởi kiện như Bộ luật dân sự hiện hành vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, để nâng cao trách nhiệm của các bên trong việc yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho mình;
Thứ hai, không tạo áp lực cho Tòa án trong việc giải quyết những vụ việc đã xảy ra trong thời gian dài, khó xác định về chứng cứ cũng như nội dung vụ việc;
Thứ ba, thời hiệu khởi kiện đã được quy định và áp dụng ổn định trong pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng dân sự ở nước ta việc bỏ quy định về loại thời hiệu này có thể gây ra những xáo trộn nhất định trong thi hành pháp luật.
Dự thảo Bộ luật thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất.
6. Về hình thức sở hữu (Điều 206 và từ Điều 219 đến Điều 242)
Về vấn đề này, có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, để cụ thể hóa và để bảo đảm sự thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu toàn dân thì Bộ luật dân sự cần quy định ba hình thức sở hữu, bao gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.
Loại ý kiến này dựa vào các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, sự phân loại này bảo đảm tính thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được ghi nhận tại các điều 32, 51 và 53, đồng thời cũng phù hợp với nguyên tắc xác định hình thức sở hữu, theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì cần phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành;
Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do đó, có thể xác định Nhà nước chính là chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài sản này. Vì vậy, trên cơ sở sở hữu toàn dân, Bộ luật dân sự cần ghi nhận cụ thể vai trò của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản công ;
Thứ ba, tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân (trong Bộ luật dân sự năm 2005 được gọi là hình thức sở hữu nhà nước) là một hình thức sở hữu đặc thù, cần phải có chế độ pháp lý riêng biệt trong Bộ luật dân sự.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Bộ luật dân sự chỉ nên quy định hai hình thức sở hữu trong giao lưu dân sự là sở hữu riêng và sở hữu chung. Trong đó, sở hữu riêng là sở hữu của một chủ thể, bao gồm cá nhân, pháp nhân; sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với một tài sản; sở hữu toàn dân thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Loại ý kiến này dựa trên các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, việc quy định hình thức sở hữu riêng, sở hữu chung là để phù hợp với nguyên tắc xác định hình thức sở hữu trong các quan hệ dân sự, theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì cần phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành;
Thứ hai, việc quy định sở hữu toàn dân thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý là để phù hợp với nội dung, tinh thần của Hiến pháp là tài sản công thuộc sở hữu của toàn dân, đồng thời tạo chế độ pháp lý cụ thể để Nhà nước thực hiện vai trò của mình trong đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý tài sản công.
Trên cơ sở hai loại ý kiến nêu trên, dự thảo Bộ luật quy định hai phương án về hình thức sở hữu, cụ thể:
Phương án 1, hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự bao gồm, sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung;
Phương án 2, hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự bao gồm, sở hữu riêng và sở hữu chung, trong đó, sở hữu toàn dân thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
7. Về việc sử dụng một số thuật ngữ trong dự thảo Bộ luật
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, các thuật ngữ pháp lý mới như “Hành vi pháp lý dân sự”, “Vật quyền”, “Trái quyền” là quá trừu tượng, khó hiểu, có thể gây khó khăn trong nhận thức, áp dụng pháp luật và có thể làm phát sinh thêm nhiều chi phí do việc thay đổi các từ ngữ này. Vì vậy, dự thảo Bộ luật cần tiếp tục sử dụng các thuật ngữ đã được sử dụng ổn định, dễ hiểu hơn với người dân, như “Giao dịch dân sự” mà không nên sử dụng “Hành vi pháp lý dân sự”; “Quyền sở hữu và các vật quyền khác” mà không nên sử dụng “Vật quyền”; “Nghĩa vụ và hợp đồng” mà không nên sử dụng “Trái quyền”.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, để phát huy được vai trò của Bộ luật dân sự là luật nền, luật chung của hệ thống pháp luật dân sự, có thể bao quát, dự báo được sự đa dạng, phong phú và đúng tính chất pháp lý của các quan hệ dân sự nói chung, của các quyền tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng, đồng thời, cũng bảo đảm được sự thống nhất, ổn định trong nghiên cứu, nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự thì cần mạnh dạn sử dụng trong Bộ luật dân sự những thuật ngữ pháp lý có nội hàm đủ sức truyền tải được các yêu cầu nêu trên, trong đó có “hành vi pháp lý dân sự”, “vật quyền”, “trái quyền”.
Trên cơ sở hai loại ý kiến nêu trên, dự thảo Bộ luật quy định hai phương án về việc sử dụng thuật ngữ, cụ thể:
Phương án 1, sử dụng thống nhất trong dự thảo Bộ luật về các thuật ngữ “Giao dịch dân sự”, “Quyền sở hữu và các vật quyền khác” và “Nghĩa vụ và hợp đồng”;
Phương án 2, sử dụng thống nhất trong dự thảo Bộ luật về các thuật ngữ “Hành vi pháp lý dân sự”, “Vật quyền” và “Trái quyền”.
8. Về cách thức xin ý kiến của Quốc hội; thời điểm, cách thức lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Bộ luật dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, hệ thống pháp luật dân sự nói riêng; trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; trong việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trong việc thúc đẩy sự hình thành và phát triển các thiết chế dân chủ, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, để bảo đảm hiệu quả trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Chính phủ xin ý kiến Quốc hội về hai nội dung sau đây:
a) Về cách thức xin ý kiến của Quốc hội đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII năm 2014 và năm 2015 thì dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) được Quốc hội cho ý kiến tại các kỳ họp thứ 8, thứ 9 và xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Chính phủ đề xuất cách thức Quốc hội cho ý kiến như sau: tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội cho ý kiến về mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi), những vấn đề Chính phủ xin ý kiến Quốc hội được thể hiện trong Tờ trình này và nội dung Phần thứ nhất “Quy định chung” của dự thảo Bộ luật; tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội cho ý kiến về các phần còn lại của dự thảo Bộ luật; tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội tiếp tục cho ý kiến và xem xét, thông qua dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi).
b) Về thời điểm lấy ý kiến nhân dân và cách thức tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Để phù hợp với cách thức xin ý kiến Quốc hội như đã nêu ở trên, Chính phủ đề xuất Quốc hội có Nghị quyết giao cho Chính phủ tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trong khoảng thời gian từ tháng 1/2015 đến tháng 3/2015. Trên cơ sở kết quả tổng hợp ý kiến nhân dân, Chính phủ chỉ đạo Cơ quan chủ trì soạn thảo dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) phối hợp với các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan, tổ chức liên quan để tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Bộ luật, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 9.
Trên đây là nội dung cơ bản của dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi), Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
(Xin gửi kèm theo: (1) Dự thảo Bộ luật; (2) Bản thuyết minh chi tiết dự thảo Bộ luật; (3) Bảng so sánh dự thảo Bộ luật; (4) Báo cáo đánh giá tác động của dự án Bộ luật; (5) Báo cáo lồng ghép giới trong xây dựng dự án Bộ luật; (6) Báo cáo của Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp; (7) Báo cáo thẩm định dự án Bộ luật; (8) Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của Hội đồng thẩm định; (9) Báo cáo tổng hợp và tiếp thu, giải trình ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương; (10) Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật dân sự năm 2005; (11) Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm nước ngoài)./.

Nơi nhận:
TM.CHÍNH PHỦ
- Như trên;
- Ban Bí thư (để b/c);
- Thủ tướng và các Phó Thủ tướng CP (để b/c);
- UBPL, UBTP, UBKT, UBCVĐXH của QH;
- Ban Nội chính TW;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Bộ Tư pháp;
- VPCP: BTCN, các PCN;
Các Vụ: TH, KGVX, V.III;
- Lưu: VT, PL (3).
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP







Hà Hùng Cường



               





[1] Bộ Tư pháp đã nhận được Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật dân sự của 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 21/21 Bộ, ngành, tổ chức có liên quan ở Trung ương.
[2] Bộ Tư pháp đã nhận được 46 công văn của các địa phương, cơ quan, tổ chức về đánh giá bất cập, hạn chế của Bộ luật dân sự.
[3] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong Báo cáo Tổng kết thi hành Bộ luật dân sự năm 2005 của ngành đã đề nghị không kết cấu Phần “Quy định về chuyển quyền sử dụng đất” và Phần “Quyền sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ” thành các phần riêng trong Bộ luật dân sự.
Share on Google Plus

About Unknown

    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 nhận xét:

Đăng nhận xét