![]()
Số: 390
/TTr-CP
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
![]()
Hà Nội, ngày 12 tháng 10 năm 2014
|
TỜ TRÌNH

Kính gửi: Quốc hội,
Thực hiện Nghị quyết số 23/2012/QH13 ngày
12 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm
2013, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012 và nhiệm kỳ của
Quốc hội khóa XIII, ngày 17 tháng 1 năm 2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết số 439/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập Ban soạn thảo Bộ luật dân
sự (sửa đổi), Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với các cơ quan,
tổ chức liên quan tiến hành soạn thảo dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) (sau đây
gọi là dự án Bộ luật). Chính phủ kính trình Quốc hội về dự án Bộ luật này với
những nội dung cơ bản sau đây:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH BỘ LUẬT DÂN SỰ (SỬA ĐỔI)
1. Bộ luật dân
sự năm 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 trên cơ sở
kế thừa truyền thống của pháp luật dân sự Việt Nam, phát huy thành tựu của Bộ
luật dân sự năm 1995 và kinh nghiệm gần 20 năm đổi mới, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Sau hơn 9 năm thi
hành, Bộ luật dân sự cơ bản đã có tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước cũng như đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh
các quan hệ xã hội được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về
tài sản và tự chịu trách nhiệm của chủ thể trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân
và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động v.v... (sau đây gọi chung là quan
hệ dân sự), thể hiện trên một số điểm lớn như sau:
Thứ nhất, Bộ luật
dân sự đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi,
bổ sung năm 2001) về tôn trọng, bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực dân sự; về thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua việc ghi nhận sự tồn tại
của nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế ở nước ta, sự đa dạng
và đồng bộ của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu; hoàn thiện thêm một bước
các quy định về quyền của người không phải là chủ sở hữu; ghi nhận
sự bình đẳng giữa các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần
kinh tế;
Thứ hai, Bộ luật
dân sự đã góp phần thúc đẩy sự hình thành, phát triển của quan hệ thị trường thông
qua việc ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng; hạn chế sự
can thiệp quá mức của cơ quan công quyền vào quá trình hình thành, tồn tại và vận động của các
quan hệ hàng hóa - tiền tệ; tạo cơ chế pháp lý để thực hiện tinh thần của Hiến
pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), theo đó, mọi cá nhân, tổ chức được làm
những gì mà pháp luật không cấm, với điều kiện các việc
làm đó không vi phạm lợi ích công cộng, đạo đức xã hội; ghi nhận nhiều
biện pháp để bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý cho các chủ thể trong
các quan hệ dân sự nói chung và kinh doanh nói riêng. Nhờ có các quy định
có tính chất nền tảng này mà về cơ bản, các quan hệ thị trường ở nước ta trong
thời gian qua đã từng bước hình thành, phát triển;
Thứ ba, nhiều quy
định trong Bộ luật dân sự đã có tính tương thích với thông lệ quốc tế, góp phần
thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, góp phần
thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập quốc
tế;
Thứ tư, đối với hệ thống pháp luật điều chỉnh
các quan hệ dân sự, Bộ luật dân sự bước đầu đã thể hiện được vai trò là luật
chung, luật nền. Có được vai trò này là nhờ các quy định của Bộ luật dân sự đã
ghi nhận được những nguyên tắc và quy định cơ bản của việc điều chỉnh pháp luật
đối với quan hệ dân sự; đồng thời, đã bao quát được tương đối đầy đủ các vấn đề
của đời sống dân sự. Nhờ vậy, Bộ luật dân sự đã góp phần vào việc khắc phục được
một bước những mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật về sở hữu, nghĩa vụ
và hợp đồng, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật dân sự nói riêng.
2. Tuy
nhiên, bước sang giai đoạn phát triển mới của đất nước, trước yêu cầu thể chế
hóa Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XI, Nghị quyết số 48 - NQ/TW
của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48-NQ/TW), Nghị quyết
số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020 (Nghị
quyết số 49-NQ/TW) và đặc biệt
là yêu cầu về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 thì Bộ luật dân sự
hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nổi bật là các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, một trong những yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền, đặc biệt sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành là Nhà nước
phải có cơ chế pháp lý để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền
con người, quyền công dân về dân sự. Tuy nhiên, một số quy định của Bộ luật dân
sự hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu này, cụ thể như: (1) Chưa bảo đảm nguyên
tắc quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế bởi luật trong những trường hợp đặc biệt
như Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận; (2) Nhiều quy định về chủ thể, giao dịch,
đại diện, nghĩa vụ và hợp đồng, thừa kế còn bất hợp lý, thiếu tính khả thi; (3)
Chưa tạo được cơ chế pháp lý hữu hiệu để bảo vệ quyền, lợi ích của bên thứ ba
ngay tình, của bên thiện chí, bên yếu thế trong quan hệ dân sự… Hạn chế này lại
càng biểu hiện rõ nét trong bối cảnh hiện nay khi mà Hiến pháp năm 2013 đã đặt
ra nhiều yêu cầu mới trong việc bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người,
quyền công dân ở nước ta;
Thứ hai, nhiều quy định của Bộ luật dân sự còn chưa
thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể như: (1) Bộ luật dân sự
hiện hành giành rất nhiều quy định về quyền sở hữu, trong khi đó lại có rất ít
quy định về các loại quyền khác đối với tài sản (quyền của người không phải là
chủ sở hữu tài sản). Thực trạng này đã dẫn đến hậu quả là, pháp luật dân sự
Việt Nam nói chung và Bộ luật dân sự nói riêng chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và
thuận lợi cho việc khai thác, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả các tài
sản và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác của đất nước; (2) Vấn đề bảo vệ
quyền sở hữu luôn được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
bất cứ Bộ luật dân sự nào, trong đó có Bộ luật dân sự nước ta. Tuy nhiên, Bộ
luật dân sự hiện hành chưa ghi nhận đầy đủ các cơ chế pháp lý để thực hiện
nhiệm vụ này, ví dụ như chưa ghi nhận được nguyên tắc quyền của tất cả các chủ
sở hữu, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế đều được pháp luật
công nhận và bảo vệ như nhau; (3) Một số quy định của Bộ luật dân sự còn gò bó,
không phù hợp với tính năng động của nền kinh tế thị trường, do đó đã ảnh hưởng
không tốt đến chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp. Ví dụ, theo quy định hiện hành về điều kiện có hiệu lực của giao
dịch thì các giao dịch dân sự có thể bị tuyên bố vô hiệu do nhiều lý do khác
nhau, do đó, không đảm bảo tính ổn định của quan hệ hợp đồng như một yêu cầu
tất yếu của nền kinh tế thị trường. Quy định hiện hành của Bộ luật dân sự về
việc một pháp nhân chỉ có thể có một đại diện theo pháp luật và chưa có quy
định về việc pháp nhân có thể là đại diện theo ủy quyền là không phù hợp với
nhu cầu rất tự nhiên, chính đáng của các doanh nghiệp về đại diện, chưa bảo đảm
tính chuyên nghiệp và tính nhanh nhạy trong quản lý, điều hành sản xuất kinh
doanh, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà các doanh nghiệp Việt Nam ngày
càng có nhu cầu và khả năng mở rộng quy mô, địa bàn hoạt động của mình và việc
tham gia tố tụng... Những hạn chế này cần phải được khắc phục sớm để tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách
thuận lợi, hiệu quả, góp phần xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta;
Thứ ba, trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự, Bộ luật dân sự hiện hành còn chưa thể hiện được một cách đầy đủ vị trí, vai trò của mình với tư cách là bộ luật nền, luật chung, nhất là trong việc thực hiện ba chức năng: (1) Quy định
những vấn đề cơ bản nhất, chung nhất có liên quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc
đời sống dân sự; (2) Định hướng cho việc xây dựng các văn bản pháp luật điều chỉnh
các quan hệ dân sự đặc thù, và (3) Khi các luật
chuyên ngành không có quy định về một quan hệ dân sự thì quy định của Bộ luật dân sự được áp dụng để điều chỉnh.
Bất cập này càng được thể hiện rõ hơn khi mà trong điều kiện hiện nay, bên cạnh
Bộ luật dân sự, đã và đang tồn tại ngày càng
nhiều đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực dân sự đặc thù, như Luật doanh nghiệp,
Luật đầu tư, Luật đất đai, Luật nhà ở, Luật kinh doanh bất động sản, Luật
thương mại, Luật hôn nhân và gia đình, Luật sở hữu trí tuệ, Bộ luật lao động,… Kết
quả là, Bộ luật dân sự nói
riêng và hệ thống pháp luật dân sự nói chung còn chưa đáp ứng được đầy đủ các
yêu cầu về tính ổn định, tính khái quát, tính hệ thống, tính dự báo và tính
minh bạch trong hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền;
Thứ tư, cấu trúc của Bộ luật
dân sự có điểm chưa hợp lý, chưa bảo đảm tính đồng bộ, tính hệ thống, tính logic giữa các
phần và chế định của Bộ luật. Nhiều quy định được lặp lại giữa các phần và các
chế định; một số quy định không bảo đảm tính rõ ràng, tạo ra các cách hiểu khác
nhau, gây khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật dân sự trong thực tiễn.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu
quả của Bộ luật dân sự nói riêng, pháp luật dân sự nói
chung; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
các quyền dân sự của người dân. Do đó, việc xây dựng Bộ luật dân sự (sửa đổi) là
rất cần thiết.
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN BỘ LUẬT DÂN SỰ
1. Tổng kết thi hành Bộ luật dân sự năm 2005
Để phục vụ cho việc sửa đổi, bổ
sung Bộ luật dân sự năm 2005, ngày 18
tháng 9 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1322/QĐ-TTg về
việc phê duyệt Kế hoạch tổng kết thi hành Bộ luật dân sự. Hoạt động tổng kết
thi hành Bộ luật dân sự được thực hiện tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và 21 Bộ, ngành, tổ chức có liên quan ở Trung ương.[1] Ngày 22 tháng 6 năm 2013, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các Bộ,
ngành, địa phương và tổ chức có liên quan tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết
thi hành Bộ luật dân sự
theo hình thức tập trung tại Hà Nội với sự tham gia đầy đủ của đại diện các cơ
quan của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao… Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã tham dự, chỉ đạo Hội nghị.
Ngoài hoạt động tổng kết thi hành Bộ luật dân sự, Cơ quan chủ trì soạn thảo
cũng đã tổ chức nhiều hoạt động dưới nhiều hình thức để lấy ý kiến bằng văn bản
của các Bộ, ngành ở trung ương; cơ quan, tổ chức có liên quan ở một số địa
phương; một số tổ chức luật sư, tổ chức kinh tế nhằm phát hiện những bất cập, hạn
chế trong quy định của Bộ luật dân sự và đề xuất phương hướng hoàn thiện.[2]
2. Soạn thảo Bộ luật
dân sự
a) Thành lập Ban soạn
thảo, tổ biên tập
Ngày 17
tháng 1 năm 2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
439/NQ-UBTVQH13 thành lập Ban soạn thảo dự án Bộ luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
làm Trưởng ban, với thành phần bao gồm: Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan Trung ương của các
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có liên quan đến việc thi
hành Bộ luật dân sự, đại diện lãnh đạo một số địa phương, tổ chức nghiên cứu,
đào tạo pháp luật và một số chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật dân sự. Ngày 29
tháng 2 năm 2012, Ban soạn thảo dự án Bộ luật đã ban hành Quyết định số
310/QĐ-BST về việc thành lập Tổ biên tập để giúp Ban soạn thảo trong quá trình
xây dựng dự án Bộ luật.
Ban soạn
thảo đã chỉ đạo nghiên cứu, xem xét toàn diện, khách quan các vấn đề lớn liên
quan đến mục tiêu, quan điểm cơ bản, định hướng xây dựng dự án Bộ luật và đã cho
ý kiến nhiều lần về những nội dung lớn của dự thảo Bộ luật dân sự trước khi
trình Chính phủ xem xét, quyết định.
b) Báo cáo
Chính phủ về mục tiêu, quan điểm và một số định hướng cơ bản trong sửa đổi Bộ
luật dân sự
Ngày 13
tháng 8 năm 2013, tại phiên họp chuyên đề của Chính phủ về xây dựng pháp luật,
Bộ Tư pháp đã thay mặt Ban soạn thảo báo cáo để Chính phủ thảo luận và cho ý kiến
về mục tiêu, quan điểm và một số định hướng cơ bản trong việc sửa đổi Bộ luật
dân sự. Nghị quyết số 101/NQ-CP ngày 20 tháng 8 năm 2013 của Chính phủ về phiên
họp chuyên đề này đã nhấn mạnh:
“Việc sửa
đổi Bộ luật dân sự lần này cần bảo đảm thể chế hóa đầy đủ các quan điểm của Đảng,
Cương lĩnh xây dựng đất nước; cụ thể hóa các nguyên tắc cơ bản của thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phù hợp với Hiến pháp; có tính kế thừa
và phát triển các quy định còn phù hợp; đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của Việt
Nam; bảo đảm nguyên tắc Bộ luật dân sự là Bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật
chung của hệ thống pháp luật tư, theo đó Bộ luật quy định các vấn đề có tính
nguyên tắc, các luật chuyên ngành quy định về các vấn đề có tính chuyên ngành”.
Trên cơ sở
Nghị quyết này của Chính phủ, Ban soạn thảo đã tổ chức xây dựng dự thảo Bộ luật
dân sự và hồ sơ dự án Bộ luật.
c) Tổ chức
lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức hữu quan, các chuyên gia về pháp luật dân sự
và người dân
Cơ quan chủ
trì soạn thảo đã tổ chức họp Hội đồng khoa học Bộ, nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo
khoa học để lấy ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, chuyên gia trong nước, nước
ngoài về mục tiêu, quan điểm và những định hướng lớn sửa đổi, bổ sung Bộ luật
dân sự; tổ chức các hoạt động khảo sát ở một số địa phương trong nước và nước
ngoài (Nhật, CHLB Đức, Pháp, Nga); nghiên cứu, biên dịch tài liệu liên quan đến
pháp luật dân sự của một số nước, nhất là các nước chuyển đổi mô hình phát triển
kinh tế như Nga… Dự thảo Bộ luật dân sự đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện
tử của Bộ Tư pháp để lấy ý kiến nhân dân, gửi xin ý kiến bằng văn bản của các Bộ,
ngành, tổ chức có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Ngày 02
tháng 7 năm 2014, Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh triển
khai thi hành Hiến pháp năm 2013 của Chính phủ đã họp để cho ý kiến về dự án Bộ
luật dân sự. Ngày 08 tháng 7 năm 2014, Hội đồng thẩm định liên ngành đã tổ chức
thẩm định dự án Bộ luật. Ý kiến của Hội đồng tư vấn thẩm định của Chính phủ và
Hội đồng thẩm định liên ngành đã được Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý
trong dự thảo Bộ luật trình Chính phủ.
Tại Phiên họp thường
kỳ ngày 31 tháng 7 năm 2014, Chính phủ đã xem xét và thống nhất về mục đích,
yêu cầu, phạm vi điều chỉnh và những nội dung cơ bản của dự án Bộ luật dân sự,
đồng thời đã cho nhiều ý kiến chỉ đạo để Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh
lý trước khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét (Nghị quyết
số 56/NQ-CP ngày 04 tháng 8 năm 2014 của Chính phủ).
Ngày 15 tháng 8 năm 2014, Chính phủ đã
trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội Tờ trình số 287/TTr-CP về dự án Bộ luật dân sự,
kèm theo dự thảo Bộ luật dân sự và các tài liệu theo đúng quy định của Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật. Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã họp thẩm tra
về dự án Bộ luật và đã có Báo cáo thẩm tra sơ bộ số 2703/BC-UBPL13 ngày 20
tháng 9 năm 2014. Ngày 22 tháng 9 năm 2014, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý
kiến về dự án Bộ luật dân sự.
Ngày 13 tháng 9 năm 2014, Ban Chỉ đạo Cải
cách Tư pháp Trung ương cũng đã họp, cho ý kiến về mục tiêu, quan
điểm và một số vấn đề lớn của dự án Bộ luật dân sự.
Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp Trung ương, Báo cáo Thẩm tra sơ bộ của
Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, đại biểu
Quốc hội, Bộ, ngành và chuyên gia có liên quan, Chính phủ đã tiếp thu, chỉnh lý
Tờ trình dự án Bộ luật dân sự, dự thảo Bộ luật và Hồ sơ dự án Bộ luật để trình
Quốc hội.
III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
XÂY DỰNG DỰ ÁN BỘ LUẬT
1. Mục tiêu
Việc sửa đổi,
bổ sung lần này là nhằm xây dựng Bộ luật dân sự thực sự trở thành luật
chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên
nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm giữa các bên tham
gia; ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu
dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế - xã hội sau khi Hiến
pháp năm 2013 được ban hành.
2. Quan điểm chỉ đạo
Bộ luật
dân sự là một đạo luật có ý nghĩa to lớn không chỉ về mặt bảo đảm quyền con người,
quyền công dân, phát triển kinh tế - xã hội mà còn cả về mặt xây dựng pháp luật.
Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật này đã được thực hiện trên cơ sở quán triệt
những quan điểm chỉ đạo sau đây:
Thứ nhất, thể
chế hóa đầy đủ, đồng thời tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo
vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời
sống dân sự, cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình
đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi hình thức sở hữu và thành phần kinh tế đã được
ghi nhận trong trong Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị và đặc biệt là trong Hiến pháp năm 2013;
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các quy định còn bất cập, hạn chế trong
thực tiễn thi hành để bảo đảm Bộ luật dân sự thực sự phát
huy được ba vai trò cơ bản là: (1) Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của các các cá nhân, pháp nhân, đặc biệt
là trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của bên yếu thế, bên thiện chí trong quan
hệ dân sự; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của cơ quan công quyền vào việc
xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ dân sự; (2) Tạo điều kiện thuận lợi để thúc
đẩy sản xuất kinh doanh, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội, bảo đảm sự
thông thoáng, ổn định trong giao lưu dân sự, góp phần phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (3) Là công cụ pháp lý hữu hiệu để thúc
đẩy sự hình thành và phát triển các thiết chế dân chủ trong xã hội, góp phần
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
Thứ ba, xây dựng Bộ luật dân
sự thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật điều
chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về
tài sản và tự chịu trách nhiệm; có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi
để một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác, đáp ứng được kịp thời sự
phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh
của pháp luật dân sự;
Thứ tư, bảo
đảm tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực tiễn của pháp
luật dân sự, cũng như các giá trị văn hóa, tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp
của Việt Nam; có sự tham khảo kinh nghiệm xây dựng Bộ luật dân sự của một số nước,
nhất là các nước có truyền thống pháp luật tương đồng với Việt Nam.
IV. PHẠM VI SỬA ĐỔI, BỐ CỤC VÀ NHỮNG NỘI DUNG MỚI, CHỦ YẾU CỦA DỰ THẢO BỘ LUẬT
1. Phạm vi sửa đổi
Căn cứ vào mục tiêu,
quan điểm xây dựng dự án Bộ luật như đã báo cáo ở trên, phạm vi sửa đổi, bổ
sung Bộ luật dân sự lần này được xác định là cơ bản và toàn diện. Trên cơ sở
phạm vi sửa đổi như vậy, dự thảo Bộ luật có tổng số 710 điều, được bố cục thành
6 phần, 29 chương. So với Bộ luật dân sự năm 2005, dự thảo Bộ luật giữ nguyên 265
điều, sửa đổi 298 điều, bổ sung 174 điều, bãi bỏ 147 điều.
2. Bố cục
Dự thảo Bộ luật gồm 6 phần:
- Phần thứ nhất: Quy định chung (từ Điều 1
đến Điều 177) quy định về phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc cơ bản, áp dụng pháp
luật dân sự; xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự; địa vị pháp lý của các
chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự; tài sản; giao dịch dân sự; đại diện;
thời hạn và thời hiệu.
- Phần thứ hai: Quyền sở hữu và các vật
quyền khác (từ Điều 178 đến Điều 301) quy định về căn cứ xác lập và thời điểm xác
lập quyền sở hữu, các vật quyền khác và hiệu lực đối kháng với người thứ ba;
bảo vệ, hạn chế quyền sở hữu và các vật quyền khác; quyền sở hữu, quyền địa
dịch, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt, quyền ưu tiên.
- Phần thứ ba: Nghĩa vụ và hợp đồng (từ
Điều 302 đến Điều 629) quy định về căn cứ phát sinh; thực hiện nghĩa vụ; các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; trách nhiệm dân sự; giao kết, thực hiện
và chấm dứt hợp đồng; các hợp đồng thông dụng; thực hiện công việc không có ủy
quyền; nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản
không có căn cứ pháp luật và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Phần thứ tư: Thừa
kế (từ Điều 630 đến Điều 686) quy định chung về thừa kế, thừa kế theo di chúc,
thừa kế theo pháp luật, thanh toán và phân chia di sản.
- Phần thứ năm: Pháp luật áp dụng đối với
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (từ Điều 687 đến Điều 708) bao gồm quy định
chung, pháp luật áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân, về quan hệ tài sản, nhân
thân có yếu tố nước ngoài.
- Phần thứ sáu: Điều khoản thi hành (từ
Điều 709 đến Điều 710) quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp.
3. Những nội dung mới, chủ yếu của dự thảo Bộ luật
a) Về phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân
sự (Điều 1)
Bộ luật dân sự quy định về những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật dân sự, địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng
xử của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân,
pháp nhân trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động và các quan hệ khác hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí,
độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ (sau
đây gọi chung là quan hệ dân sự).
b) Về nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân
sự (Điều 2 - Điều 9)
Để bảo đảm thống nhất
trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự, góp phần hình
thành chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, dự thảo Bộ luật quy
định 8 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, bao gồm: (1) Nguyên tắc công nhận,
tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự; (2) Nguyên tắc bình đẳng; (3) Nguyên
tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; (4) Nguyên tắc thiện chí, trung thực;
(5) Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp; (6) Nguyên tắc
tôn trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác;
(7) Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự; (8) Nguyên tắc hòa giải.
Việc quán triệt các nguyên tắc này góp phần bảo
đảm tất cả quyền dân sự của cá
nhân, pháp nhân được Hiến pháp và pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm thực hiện và chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
c) Về áp dụng pháp luật dân sự (Điều 10 -
Điều 13)
Để tạo cơ chế pháp lý đầy đủ cho việc công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, phát huy
được vị trí, vai trò của Bộ luật dân sự, bảo đảm sự thống nhất trong việc áp
dụng pháp luật dân sự và đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế và trên cơ sở kế
thừa các quy định của pháp luật hiện hành, dự thảo Bộ luật dân sự quy định về việc
áp dụng pháp luật dân sự, theo hướng:
- Bộ luật dân sự được xác định là luật chung điều
chỉnh các quan hệ dân sự; các luật khác điều chỉnh quan hệ trong các lĩnh vực dân
sự cụ thể không được trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự; trường
hợp trong các luật này không có quy định thì quy định của Bộ luật này được áp dụng;
- Điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là
thành viên và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế phù hợp với Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam được áp dụng trực tiếp hoặc theo nguyên tắc tương tự pháp
luật để giải quyết các quan hệ dân sự;
- Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có
quy định thì áp dụng tập quán; trường hợp không có tập quán
thì áp dụng tương tự pháp luật; trường hợp không thể áp dụng
tương tự pháp luật thì áp dụng những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công bằng để
giải quyết vụ việc dân sự.
d) Về xác
lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự (Điều 14 - Điều 22)
Thể chế
hóa các nghị quyết của Đảng, quy định của
Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền
dân sự, dự thảo Bộ luật bổ sung các nguyên tắc chung về xác lập, thực hiện và bảo
vệ quyền dân sự, trong đó:
- Cá nhân, pháp nhân
thực hiện quyền dân sự theo ý chí của mình nhưng không được trái với những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và không được vượt quá giới hạn thực
hiện quyền dân sự được quy định tại Bộ luật này;
- Cá nhân, pháp nhân không được lạm dụng
quyền dân sự để gây thiệt hại cho người khác; để vi phạm các nghĩa vụ về nhân
thân, tài sản của mình theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; để hạn chế cạnh tranh hoặc để thực hiện
mục đích khác trái pháp luật;
- Tòa án, cơ quan có
thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.
Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền
được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài. Việc bảo vệ
quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong những trường hợp luật
định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét
lại tại Tòa án. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì
lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định về áp dụng
tập quán, tương tự pháp luật, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và lẽ công
bằng được áp dụng để xem xét, giải quyết.
đ) Về chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự (Điều 23 - Điều 119)
Dự thảo Bộ
luật quy định cụ thể về địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân, việc tham gia
quan hệ dân sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở Trung ương, ở địa
phương, hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác không có tư cách pháp nhân,
trong đó:
- Về cá
nhân, dự thảo Bộ luật đã bổ sung nhiều cơ chế pháp lý mới, hợp lý để bảo vệ tốt
hơn quyền của những người yếu thế về năng lực hành vi dân sự, đặc biệt là chế độ
giám hộ đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi của mình. Về quyền nhân thân, bên
cạnh việc quy định các quyền nhân thân cơ bản nhất của cá nhân thì dự thảo Bộ
luật bổ sung nguyên tắc: Ngoài các quyền nhân thân được quy định tại Bộ luật
dân sự, các quyền con người, quyền nhân thân khác về dân sự đều được Nhà nước
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật;
- Về pháp nhân, để cụ
thể hóa nội dung, tinh thần của Hiến pháp về quyền lập hội, quyền tự do kinh
doanh, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế đều bình đẳng… và để góp phần
“hiện thực hóa” địa vị pháp lý của chủ thể này trong các quan hệ dân sự, dự
thảo Bộ luật quy định mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền thành lập pháp nhân,
trừ trường hợp luật có quy định khác. Pháp nhân phải được đăng ký tại cơ quan
có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; việc đăng ký pháp
nhân phải được công bố công khai. Đồng thời, để bao quát, dự báo được sự đa dạng của pháp nhân trong giao lưu dân sự, dự
thảo Bộ luật quy định 2 loại pháp nhân cơ bản, đó là: (i) Pháp nhân thương mại (pháp
nhân hoạt động vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận); (ii) Pháp nhân phi
thương mại (pháp nhân hoạt động không vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận
và không phân chia lợi nhuận cho các thành viên);
- Về sự tham gia của Nhà
nước CHXHCN Việt Nam, các cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương trong
quan hệ dân sự, dự thảo Bộ luật quy định, Nhà nước CHXHCN Việt Nam,
cơ quan nhà nước ở trung ương và ở địa phương bình đẳng với chủ thể khác là cá
nhân, pháp nhân khi tham gia quan hệ dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy
định của Bộ luật này. Đồng thời, dự
thảo Bộ luật quy định những nội dung cơ bản về địa vị pháp lý, đại diện tham
gia quan hệ dân sự, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự và về trách nhiệm
trong quan hệ dân sự của Nhà nước CHXHCN Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung
ương và ở địa phương với nhà nước, pháp nhân, cá nhân nước ngoài;
- Về sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác và
các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân trong quan hệ dân sự, dự thảo Bộ
luật quy định hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân
tham gia quan hệ dân sự thông qua cá nhân là người đại diện hoặc là thành viên
của mình theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. Các thành viên
có thể thỏa thuận cử người đại diện tham gia, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự
vì lợi ích chung. Địa vị pháp lý của hộ gia đình sử dụng đất được xác định theo
quy định của pháp luật về đất đai. Đồng thời, dự thảo Bộ luật quy định những
nội dung cơ bản về tài sản chung, trách nhiệm dân sự của thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có
tư cách pháp nhân.
e) Về tài
sản (Điều 120 - Điều 130)
Để bảo đảm
tính bao quát, minh bạch, công khai, huy động và phát huy được hết các nguồn lực
vật chất trong xã hội, dự thảo Bộ luật đã bổ sung quy định, theo đó, tài sản bao gồm bất động sản và động sản;
tài sản có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản đối với các đối
tượng sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác. Bất động sản phải được đăng ký
theo quy định của Bộ luật này và Luật đăng ký tài sản. Các thông tin về tài sản
đã đăng ký phải được công khai. Quyền tài sản là quyền
trị giá được bằng tiền và có thể là đối tượng trong quan hệ dân sự, bao gồm
quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền
khác, trong đó, quyền tài sản
đối với đối tượng sở hữu trí tuệ được quy định trong Bộ luật này và pháp luật
về sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất được quy định trong Bộ luật này và Luật
đất đai.
g) Về giao dịch
dân sự (Điều 131 - Điều 145)
Dự thảo Bộ
luật đã có nhiều sửa đổi, bổ sung liên quan đến các quy định về giao dịch dân sự
theo hướng bảo đảm tốt hơn quyền tự do thể hiện ý chí, sự an toàn pháp lý, sự ổn
định của giao dịch, quyền, lợi ích của bên thiện chí, bên ngay tình, cụ thể như:
(1) Giao dịch dân sự không
tuân thủ quy định về hình thức nhưng không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
khác và chủ thể giao dịch đã chuyển giao vật, tiền hoặc đã thực hiện công việc
thì giao dịch đó vẫn có hiệu lực; trường hợp này, theo yêu cầu của một hoặc các
bên, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm hoàn tất thủ tục đối với giao dịch
đó; (2) Quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu
cũng được sửa đổi để bảo đảm công bằng, phù hợp hơn với quyền, lợi ích của chủ
thể xác lập giao dịch; (3) Quyền của người thứ ba ngay tình được bảo vệ triệt để
hơn theo nguyên tắc, trong trường hợp đối tượng của giao dịch là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó
đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao
bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó
mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường
hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch là do
bị chiếm đoạt bất hợp pháp, ngoài ý chí của chủ sở hữu; việc chuyển giao
tài sản thông qua đấu giá hoặc căn cứ theo bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền cũng được bảo vệ...
h) Về đại diện (Điều 146 - Điều 158)
Dự thảo Bộ luật đã có một số sửa đổi, bổ
sung quy định về đại diện nhằm tạo điều kiện pháp lý tốt hơn trong việc trợ
giúp cá nhân, pháp nhân thực hiện, bảo vệ các quyền dân sự của mình và hạn chế
rủi ro pháp lý trong các quan hệ dân sự. Cụ thể là, người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân là người được xác định theo điều lệ hoặc theo quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền; pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo
pháp luật và pháp nhân có thể là người đại diện theo ủy quyền cho các chủ thể
khác; đại diện theo pháp luật có quyền nhân danh bên được đại diện xác
lập, thực hiện hành vi pháp lý phù hợp với quyền, nghĩa vụ của đại
diện theo pháp luật. Trường hợp pháp nhân có nhiều đại diện theo pháp luật thì
mỗi người có quyền đại diện cho pháp nhân phù hợp với quyền, nghĩa vụ
của mình. Giao dịch dân sự do bên đại diện xác lập, thực hiện với bên thứ ba
phù hợp với phạm vi quyền đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của bên được
đại diện. Bên đại diện có
quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết tùy thuộc hoàn cảnh để đạt được mục
đích phù hợp với phạm vi quyền đại diện…
i) Về thời hiệu (Điều 164 - Điều 177)
Để tất cả
các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp và pháp luật công nhận đều
được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm kịp thời, nâng cao trách nhiệm của Tòa án, các
cơ quan có thẩm quyền khác trong tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự của cá nhân,
pháp nhân, sự ổn định của các quan hệ dân sự và để phù hợp hơn với bản chất pháp lý của thời hiệu, dự thảo Bộ luật quy định
về thời hiệu theo nguyên tắc: cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án, trọng tài
giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá
nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu của cá
nhân, pháp nhân như quy định hiện hành, tòa án hoặc trọng tài vẫn thụ lý, giải
quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ
dân sự. Người được hưởng quyền dân sự có quyền từ chối việc hưởng quyền, người
được miễn trừ nghĩa vụ dân sự có quyền từ chối việc miễn trừ nghĩa vụ, trừ
trường hợp việc từ chối đó có mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ hoặc vi
phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội.
k) Về thời điểm xác
lập quyền sở hữu và các vật quyền khác (Điều 179)
Để bảo đảm thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự
về thời điểm xác lập quyền sở hữu và các vật quyền khác, dự thảo Bộ luật
quy định: (1) Việc xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể
từ thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trực tiếp nắm giữ, chi
phối tài sản, trừ trường hợp luật hoặc
hợp đồng có quy định khác; (2) Trường hợp tài sản đã
được chuyển giao trước thời điểm hợp đồng được giao kết thì quyền sở hữu và vật
quyền khác được xác lập kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, trừ trường hợp
luật hoặc hợp đồng có quy định khác; (3) Trường
hợp luật quy định việc chuyển giao vật phải được đăng ký tại cơ quan có thẩm
quyền thì thời điểm xác lập quyền sở hữu và vật quyền khác có hiệu lực kể từ
thời điểm đăng ký, trừ trường hợp luật khác có quy định khác.
l) Về chiếm hữu (Điều 192 - Điều 200)
Dự thảo Bộ luật bổ sung chế định chiếm hữu như
là tình trạng pháp lý về việc cá nhân, pháp nhân nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp. Theo
chế định này, người chiếm hữu tài sản được suy đoán là ngay tình; người
nào cho rằng, người chiếm hữu là không ngay tình thì phải chứng minh. Người nào
có tranh chấp với người chiếm hữu thì phải chứng minh rằng, người chiếm hữu
không có quyền. Trường hợp một người có yêu cầu về quyền sở hữu hoặc các vật
quyền khác đối với tài sản đang do người khác chiếm hữu thì cơ quan có thẩm
quyền chỉ thụ
lý giải quyết với điều kiện người đó phải chấm dứt hành vi vi
phạm quyền của người chiếm hữu và khôi phục lại tình trạng ban đầu (nếu có). Quy định này sẽ góp phần bảo đảm trật tự xã
hội, sự ổn định của giao dịch, giá trị kinh tế của tài sản, sự thiện chí trong
quan hệ dân sự.
m) Về hình thức sở hữu (Điều 206, Điều 219 - Điều 242)
Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và nội
dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và trên cơ sở vận dụng nguyên tắc việc
xác định các hình thức sở hữu cần phải dựa vào sự khác biệt trong cách thức
thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu, dự thảo Bộ luật quy định: trong Bộ
luật dân sự, hình thức sở hữu bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu
chung. Sở hữu toàn dân là sở hữu đối với tài sản công, bao gồm đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài
nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý. Sở hữu riêng là sở hữu của một chủ thể, bao
gồm cá nhân, pháp nhân. Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với một
tài sản.
n) Về quyền của cá nhân,
pháp nhân không phải là chủ sở hữu tài sản (Các vật quyền khác, Điều 264 - Điều 301)
Bên cạnh
quyền sở hữu, dự thảo Bộ luật ghi nhận cụ thể một số quyền của người không phải
là chủ sở hữu đối với tài sản như: (1) Quyền địa dịch, (2) Quyền hưởng dụng, (3)
Quyền bề mặt, (4) Quyền ưu tiên. Sự bổ sung này có ý nghĩa quan trọng nhằm thể chế hóa các nghị quyết của Đảng và nội dung,
tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu toàn dân, sở hữu tư nhân; về xây dựng,
hoàn thiện thể chế kinh tế và điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các
quy luật thị trường; về việc Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh
nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác yên tâm đầu tư, sản xuất, kinh
doanh; về nguyên tắc tài sản hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân đều được pháp luật
bảo hộ và không bị quốc hữu hóa... Cụ thể là:
- Về quyền địa dịch, dự thảo Bộ luật quy định đây là một quyền được thực hiện trên một bất
động sản (gọi là bất động sản chịu địa dịch) nhằm phục vụ cho việc khai thác
một bất động sản khác (gọi là bất động sản hưởng địa dịch). Địa dịch có thể được xác lập theo địa thế tự nhiên, thỏa thuận hoặc theo
luật định. Quyền
địa dịch được thực hiện theo nguyên tắc bảo đảm nhu cầu hợp lý của việc khai
thác bất động sản hưởng địa dịch, phù hợp với mục đích
sử dụng bất động sản. Chủ sở hữu bất động sản hưởng dịa địch không được sử dụng
quyền địa dịch trên bất động sản chịu địa dịch vượt quá nhu cầu hợp lý trong
việc khai thác bất động sản hưởng địa dịch. Chủ sở hữu bất động sản chịu địa
dịch không được thực hiện các hành vi ngăn cản hoặc làm cho việc thực hiện
quyền địa dịch trở nên khó khăn, dẫn đến việc không bảo đảm được nhu cầu hợp lý
về sử dụng, khai thác bất động sản hưởng địa dịch...;
- Về quyền hưởng dụng,
dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, quyền hưởng dụng là một quyền mà chủ thể
có quyền đó được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức từ vật thuộc quyền
sở hữu của chủ thể khác, với điều kiện việc thực hiện quyền này không được làm
thay đổi tính chất, tính năng sử dụng của vật đó. Đối tượng của quyền hưởng
dụng có thể là bất động sản và động sản.
Quyền hưởng dụng được xác lập theo quy định của luật, theo thoả thuận
hoặc hành vi pháp lý đơn phương. Thời
hạn của quyền hưởng dụng do các bên thỏa thuận hoặc do luật định nhưng tối đa
chỉ đến hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên;
- Về quyền bề mặt,
dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, quyền bề mặt là quyền của chủ thể được sử
dụng mặt đất, khoảng không trên mặt đất và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó
thuộc về người khác (Trong trường hợp bề mặt là mặt nước cũng áp dụng theo quy
định này). Quyền bề mặt được xác lập theo thỏa thuận, theo cam kết đơn phương hoặc
theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan. Đối tượng của quyền bề
mặt có thể là vật cụ thể gắn với đất hoặc là phần không gian, theo đó vật gắn
với đất sẽ được tạo lập. Vật cụ thể gắn với đất có thể là vật nằm trên bề mặt
đất, nằm dưới mặt đất hoặc phần không gian trên mặt đất. Chủ thể quyền bề mặt
có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với vật đó. Trong trường hợp
đối tượng của quyền là phần không gian mà trong đó các vật gắn với đất có thể
được tạo lập thì chủ sở hữu phần không gian có quyền xây dựng, trồng cây, canh
tác và có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với vật mới được tạo
ra;
- Về quyền ưu
tiên, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, quyền
ưu tiên (còn gọi là đặc quyền lấy trước) là quyền của chủ thể có quyền lợi
trong một quan hệ pháp luật được ưu
tiên thanh toán trước các chủ thể có quyền khác. Quyền
ưu tiên là một trong những
loại vật quyền luật định, chỉ phát sinh trong một số trường hợp do luật
quy định khi đáp ứng một số điều kiện nhất định. Đây là quyền đương nhiên được
pháp luật bảo vệ, không phụ thuộc ý chí của các chủ thể khác;
- Ngoài các vật quyền nêu trên được quy định
trong Bộ luật dân sự thì các luật khác có liên quan cũng có thể quy định về các
loại vật quyền khác theo yêu cầu của thực tiễn vận hành của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
o) Về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự (Điều 374
- Điều 386)
Dự thảo Bộ luật sửa đổi, bổ sung nhiều quy định về trách nhiệm dân sự do
không thực hiện đúng nghĩa vụ nhằm bảo đảm sự an toàn, thông thoáng, lẽ công bằng
trong các quan hệ dân sự cũng như trong giải quyết vụ việc dân sự, cụ thể là:
- Cá nhân, pháp nhân không thực
hiện đúng nghĩa vụ thì bị suy đoán là có lỗi và phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp chủ thể này có căn cứ được miễn trừ trách nhiệm do vi
phạm nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật dân sự;
- Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các
biện pháp cần thiết, hợp lý để hạn chế thiệt hại có thể gây ra cho mình. Trong
trường hợp người bị thiệt hại chậm trễ trong việc áp dụng các biện pháp cần
thiết, hợp lý để giảm thiểu thiệt hại cho mình thì người gây thiệt hại có quyền
yêu cầu giảm mức bồi thường tương ứng với mức thiệt hại mà lẽ ra người bị thiệt
hại có thể hạn chế được;
- Trường hợp việc
không thực hiện đúng nghĩa vụ và thiệt hại gây ra là do một phần lỗi của người
bị thiệt hại thì người gây thiệt hại có quyền yêu cầu giảm mức bồi thường tuỳ
theo mức độ lỗi của người bị thiệt hại. Trong trường hợp bên vi phạm chứng minh
được việc không thực hiện đúng nghĩa vụ là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn
toàn do lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm dân
sự, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc luật có quy định khác.
p) Về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 320 - Điều 373)
Dự thảo Bộ luật ghi nhận đầy đủ, rõ ràng và hợp lý hơn về những biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sau đây: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, cầm giữ
tài sản, bảo lưu quyền sở hữu, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh. Ví dụ, về
cầm cố, thế chấp thì dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, bên cầm cố, bên thế
chấp có quyền bán, trao đổi, tặng cho, thay thế tài sản cầm cố, thế chấp nếu có
thỏa thuận với bên nhận cầm cố, nhận thế chấp hoặc tài sản cầm cố, thế chấp là hàng hóa luân chuyển trong quá trình
sản xuất kinh doanh hoặc thuộc trường hợp khác theo quy định của luật. Trường
hợp tài sản cầm cố, thế chấp được bán, trao đổi, tặng cho, thay thế thì bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng cho
tài sản có nghĩa vụ phải giao tài sản theo yêu cầu của bên nhận cầm cố, bên
nhận thế chấp. Trường hợp bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng cho, bên
thuê, bên mượn không giao tài sản thì bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp có
quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bên mua, bên nhận trao đổi, bên nhận tặng
cho, bên thuê, bên mượn phải giao tài sản theo thủ tục tố tụng rút gọn.
q) Về quy định
chung về hợp đồng (Điều 407 - Điều 450)
Dự thảo Bộ luật quy định các điều khoản chung về hợp đồng,
định hướng cho việc xây dựng các quy định về hợp đồng trong các luật khác có
liên quan và đủ để áp dụng trong trường hợp các luật khác có liên quan thiếu
quy định về hợp đồng. Ngoài ra, một số quy định mới phù hợp với thông lệ quốc tế,
với thực tiễn nước ta đã được bổ sung, nhất là các quy định về điều kiện giao dịch
chung, điều chỉnh hợp đồng khi có thay đổi hoàn cảnh, phụ lục hợp đồng, hủy bỏ
và hậu quả của hủy bỏ hợp đồng,.... Về điều kiện giao dịch chung, dự thảo Bộ luật
thừa nhận về điều kiện giao dịch chung theo hướng, đó là những quy định do bên đề nghị giao kết hợp đồng
công bố áp dụng chung cho các bên tham gia hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp
nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận toàn bộ quy định đã được bên đề
nghị đưa ra. Nếu trong điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách
nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ
quyền lợi của bên kia thì quy định này không có hiệu lực. Dự thảo Bộ luật cũng
cho phép trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi dẫn đến quyền, lợi ích của một
trong các bên bị ảnh hưởng nghiêm trọng thì cho phép các bên điều chỉnh hợp
đồng theo những điều kiện được quy định; một bên chỉ có thể hủy bỏ hợp đồng nếu
bên kia vi phạm nghiêm trọng hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận
hoặc pháp luật quy định khác.
r) Về các hợp đồng
thông dụng (Điều 451 - Điều
594)
Dự thảo Bộ
luật chỉ quy định về những hợp đồng mang tính đặc trưng và đại diện cho quan hệ
pháp luật dân sự. So với Bộ luật dân sự năm 2005, dự thảo Bộ luật không quy định
về hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng thuê nhà ở, hợp đồng bảo hiểm. Những hợp đồng
này đã được quy định trong Luật nhà ở, Luật kinh doanh bảo hiểm. Bên cạnh đó, dự
thảo Bộ luật cũng bổ sung một loại hợp đồng mới là hợp đồng hợp
tác để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về hợp tác trong sản xuất, kinh doanh. Đối
với một số hợp đồng cơ bản như hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng vay tài sản,
hợp đồng thuê tài sản... thì dự thảo Bộ luật bổ sung nhiều quy định để bảo đảm các quy định
này có thể áp dụng cho các hợp đồng có liên quan và cũng bao quát được những dạng
thức hợp đồng phái sinh, đặc thù có thể phát sinh trong tương lai, cụ thể:
Về mua bán
tài sản, dự thảo Bộ luật quy định, tài sản được quy định tại Bộ luật này đều có thể là đối tượng của hợp đồng
mua bán. Trong trường hợp theo quy định của luật, tài sản bị cấm hoặc bị hạn
chế chuyển nhượng thì tài sản bán phải phù hợp với các quy định đó. Tài sản bán
phải thuộc sở hữu của người bán hoặc người bán có quyền bán tài sản đó. Khi các
bên không có thoả thuận, thỏa thuận không rõ ràng về chất lượng tài sản mua bán
thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn đã được công
bố theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo tiêu chuẩn ngành
nghề. Trong trường hợp không có các tiêu chuẩn này thì chất lượng của tài sản
mua bán được xác định theo tiêu chuẩn thông thường hoặc theo tiêu chuẩn riêng
phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng và theo quy định của Luật bảo vệ người
tiêu dùng...;
Về vay tài sản, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng, lãi suất
trong hợp đồng vay do các bên thỏa thuận hoặc do luật định. Trường hợp các bên có thỏa
thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 200% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước
công bố đối với loại vay tương ứng, trừ trường hợp luật có quy định khác. Trường hợp các bên có thoả thuận về việc
trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất thì lãi suất được xác định theo lãi
suất luật định, nếu không có lãi suất luật định thì coi như hợp đồng vay không
có lãi, trừ trường hợp luật có quy định
khác. Trong trường hợp
vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay
phải trả lãi trên nợ gốc và lãi suất nợ quá hạn bằng 150%
lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có
thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác;
Về hợp đồng hợp tác, dự thảo Bộ luật quy
định, hợp đồng hợp tác là hợp đồng, theo đó nhiều cá nhân từ đủ mười tám tuổi
trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thỏa thuận về việc cùng đóng góp tài
sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng
chịu trách nhiệm. Hợp đồng hợp tác phải được lập thành văn bản và được công
chứng hoặc chứng thực.
s) Về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng (Điều 605 -
Điều 629)
Dự thảo Bộ luật quy định người bị thiệt hại không có nghĩa vụ chứng
minh lỗi của bên gây thiệt hại để thay thế cho quy định hiện hành đang tạo gánh
nặng chứng minh của người bị thiệt hại. Theo đó, người nào có hành vi trái pháp luật xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường. Dự thảo Bộ
luật bổ sung quy định, theo đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản có nghĩa vụ
bồi thường cho người bị thiệt hại về những thiệt hại do tài sản của mình gây
ra.
t) Về thời hiệu thừa kế (Điều 644)
Để khắc phục những
bất cập về thời hiệu khởi kiện thừa kế trong Bộ luật dân sự hiện hành, phù hợp
với quyền của người thừa kế, người khác có liên quan đến di sản và những đặc
thù về văn hóa, tính chất của di sản, dự thảo Bộ luật quy định thời hiệu thừa
kế theo hướng:
Thứ nhất, thời hạn
yêu cầu chia di sản là ba mươi năm đối với bất động sản, mười năm đối với động
sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này mà không có yêu cầu chia di
sản thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Thứ hai, trường
hợp không có yêu cầu chia di sản và không có người thừa kế đang quản lý di sản
thì di sản được giải quyết như sau:
- Trường hợp di
sản đang được người khác chiếm hữu hoặc được lợi một cách ngay tình, liên tục,
công khai thì người này được xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu đối với quyền
sở hữu có đối tượng là bất động sản hoặc động sản được quy định tại Bộ luật dân
sự;
- Trường hợp
không có người khác chiếm hữu hoặc được lợi về di sản hoặc có người này nhưng
việc chiếm hữu của họ không có căn cứ pháp luật, không ngay tình thì di sản
thuộc về Nhà nước.
u) Về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều
687 - Điều 708)
Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được dự thảo Bộ luật quy định tại Phần thứ năm với những nội dung mới, chủ yếu
như sau:
- Về phạm vi áp dụng, trong trường hợp có quy định khác nhau giữa Phần
này và luật khác có liên quan về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu
tố nước ngoài thì áp dụng quy định của luật khác có liên quan với điều kiện các
quy định của luật đó không trái với các nguyên tắc
xác định và áp dụng pháp luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài
được quy định trong Bộ luật dân sự;
- Về nguyên tắc xác định và áp dụng pháp
luật, nguyên tắc các bên được lựa chọn pháp luật áp dụng cho các quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài, trừ các trường hợp đã có quy định cụ thể tại Phần này
hoặc luật khác có liên quan. Trong trường hợp các bên không lựa chọn pháp
luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy
định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan của Việt Nam không có quy định
về việc xác định pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước nơi có quan hệ
gắn bó nhất với quan hệ dân sự đó được áp dụng...;
- Bên cạnh đó, dự thảo Bộ luật sửa đổi, bổ
sung làm phong phú hơn hệ thuộc xác định pháp luật áp dụng, làm rõ thứ tự ưu
tiên áp dụng các hệ thuộc, đặc biệt làm hệ thuộc luật áp dụng đối với hợp đồng,
thừa kế, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các hệ thuộc liên quan đến nhân
thân theo hướng tiếp thu có chọn lọc các tiêu chuẩn, chuẩn mực pháp lý chung đã
được quốc tế thừa nhận rộng rãi.
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN QUỐC HỘI
Trong
quá trình soạn thảo, góp ý, đa số ý kiến thể hiện sự tán thành với nhiều nội
dung của dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Tuy nhiên, trong dự thảo Bộ luật có một
số vấn đề mới, quan trọng, có vấn đề còn có ý kiến khác nhau, Chính phủ xin báo
cáo Quốc hội như sau:
1. Về phạm vi điều chỉnh và bố cục của dự thảo Bộ luật dân sự
So với Bộ luật dân sự hiện hành, dự thảo
Bộ luật không tái kết cấu Phần “Quy định về chuyển quyền sử dụng đất” và Phần
“Quyền sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ” thành các phần riêng trong dự
thảo Bộ luật dân sự. Các quy định về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ
liên quan đến tài sản, quyền sở hữu, vật quyền khác, hợp đồng và quyền nhân
thân đã được quy định trong các chế định tương ứng của dự thảo Bộ luật mà
không quy định lại những nội
dung đã được quy định cụ thể trong Luật đất đai năm 2013; Luật sở hữu trí tuệ
năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật chuyển giao công nghệ và các luật
khác có liên quan.
Việc xác định phạm vi điều chỉnh của Bộ
luật dân sự như trên giúp khắc phục được tình trạng trùng lặp, chồng chéo, mâu
thuẫn giữa các văn bản pháp luật về cùng một vấn đề. Mặt khác, quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ là những lĩnh vực thường có
nhiều biến động trong thực tiễn thi hành. Do đó, việc không kết cấu những vấn
đề này thành phần riêng sẽ giúp nhiều quy định của Bộ luật dân sự tránh được
tình trạng bị coi là lạc hậu so với quy định của các luật khác có liên quan.[3] Đây cũng là biện pháp góp phần thực hiện một trong những quan điểm chỉ đạo quan
trọng trong việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự lần này là xây dựng Bộ luật dân
sự thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật
dân sự, có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để đáp ứng được kịp thời
sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội vốn rất năng động
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự, đồng thời bảo đảm được tính ổn định
của Bộ luật này.
Trên cơ sở
phạm vi điều chỉnh như vậy, dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) được bố cục thành
6 phần như sau:
Phần
thứ nhất: Quy định chung;
Phần
thứ hai: Quyền sở hữu và vật quyền khác;
Phần
thứ ba: Nghĩa vụ và hợp đồng;
Phần
thứ tư: Thừa kế;
Phần
thứ năm: Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài;
Phần
thứ sáu: Điều khoản thi hành.
2. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Từ Điều
2 đến Điều 9)
Dự thảo Bộ
luật dân sự quy định 8 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, bao
gồm: (1) Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự; (2)
Nguyên tắc bình đẳng; (3) Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; (4)
Nguyên tắc thiện chí, trung thực; (5) Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống
tốt đẹp; (6) Nguyên tắc tôn trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác; (7) Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự; (8) Nguyên tắc hòa
giải.
Quy định như trên được
dựa trên các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, thể chế hóa Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 và cụ thể hóa nội dung, tinh thần
của Hiến pháp năm 2013 (các điều 13, 14, 15, 16, 32, 33, 51...) về
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu, quyền tự do
kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể không phân biệt hình thức sở hữu
và thành phần kinh tế;
Thứ hai, để bảo
đảm sự thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự,
đặc biệt là để bảo đảm tính thống nhất, logic, đồng bộ của các luật khác trong
việc điều chỉnh quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực hoạt động cụ thể, góp phần
hình thành chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân trong đời sống
dân sự;
Thứ ba, góp phần tạo cơ chế
pháp lý đầy đủ hơn cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự,
đặc biệt là trong các trường hợp giải quyết vụ, việc dân sự mà không có quy định
của luật, không có tập quán và không áp dụng được tương tự pháp luật.
3. Trách nhiệm của Tòa án và cơ quan có thẩm quyền khác trong việc bảo vệ
quyền dân sự (Điều 21)
Dự thảo Bộ luật dân sự quy định cụ thể cơ
chế pháp lý để bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân thông qua Tòa án và
cơ quan có thẩm quyền khác, theo đó:
“1. Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có
trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.
Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có
tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa
án hoặc trọng tài.
Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành
chính được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ
việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án.
2. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải
quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp
này, quy định tại Điều 12 và Điều 13 của
Bộ luật này được áp dụng để xem xét, giải quyết”.
Quy định như
trên được dựa trên các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, quy định
này phù hợp với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 14); về trách
nhiệm của Chính phủ, Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền con người, quyền
công dân (khoản 6 Điều 96, khoản 3 Điều 102), theo đó “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”;
Thứ hai, theo
nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước phải có trách nhiệm tạo
cơ chế pháp lý đầy đủ để mọi
quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp, pháp luật công nhận đều
được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, việc bổ sung quy định nêu
trên là cần thiết nhằm góp phần thực hiện trách nhiệm này của Nhà nước. Mặt
khác, trong thời gian qua, do thiếu quy định này của luật nên không ít trường
hợp Tòa án đã phải từ chối thụ lý và giải quyết các yêu cầu chính đáng của cá
nhân, pháp nhân;
Thứ ba, nguyên tắc áp dụng tập quán và quy
định tương tự của pháp luật trong trường hợp không có quy định của luật cũng đã
được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy
nhiên, pháp luật hiện hành lại chưa có quy định về trách nhiệm của Tòa án trong
việc áp dụng tập quán và quy định tương tự của pháp luật để giải quyết các vụ
việc dân sự. Vì vậy, việc quy định như trong dự thảo Bộ luật là cần thiết;
Thứ tư, nghiên cứu thực tiễn lập pháp của
một số nước cho thấy, trong Bộ luật dân sự của các nước này đều có quy định,
theo đó, trong trường hợp không có quy định của luật thì thẩm phán phải vận
dụng tất cả các biện pháp hợp pháp để giải quyết yêu cầu của người dân mà không
được phép từ chối giải quyết với lý do không có quy định của pháp luật để áp
dụng.
4. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
(Điều 145)
Về vấn đề này, có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất
cho rằng, Bộ luật dân sự cần có
quy định cụ thể hơn về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao
dịch dân sự vô hiệu có đối tượng là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, theo
hướng: trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và
người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì đối
với người thứ ba, giao dịch này không vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết
hoặc phải biết rằng tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự đã bị chiếm đoạt
bất hợp pháp, ngoài ý chí của chủ sở hữu. Trường hợp tài sản chưa được đăng ký
tại cơ quan có thẩm quyền thì người thứ ba chỉ được bảo vệ khi nhận được tài
sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó
người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
Loại ý kiến này
dựa trên các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, để bảo đảm lợi ích của người
thiện chí, ngay tình và để bảo đảm sự ổn định của các quan hệ dân sự thì các Bộ
luật dân sự trên thế giới đều ghi nhận việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong
giao dịch dân sự (Bộ luật dân sự năm 1995, 2005 của nước ta cũng đã quy định về
vấn đề này). Tuy nhiên, việc bảo vệ người thứ ba ngay tình theo nguyên tắc nào thì
lại phụ thuộc vào chính sách pháp luật của từng nước. Nhưng nhìn chung, những
nước quy định thời điểm xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, vật quyền khác đối với
bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu được tính từ thời điểm đăng ký
thì thường lựa chọn chính sách “hiệu lực công tín” tức là, nếu người thứ ba
ngay tình căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền mà xác lập giao dịch thì người thứ ba ngay tình được bảo vệ;
Thứ hai, Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều
168, Điều 439, Điều 692), Luật đất đai năm 2013 (khoản 3 Điều 188) quy định
thời điểm xác lập, chấm dứt quyền sở hữu đối với bất động sản, động sản có đăng
ký quyền sở hữu được tính từ thời điểm đăng ký. Dự thảo Bộ luật dân sự (Điều 179)
về cơ bản kế thừa quy định của Bộ luật dân sự hiện hành và quy định của Luật
đất đai năm 2013. Do đó, việc quy định theo hướng bảo vệ người thứ ba ngay tình
trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
phù hợp với nguyên tắc đăng ký bất động sản hiện nay, góp phần bảo đảm lợi ích
chính đáng của người thiện chí, ngay tình, cũng như sự ổn định của các quan hệ
dân sự;
Thứ ba, bảo vệ người thứ ba ngay tình
trong trường hợp này không có nghĩa là không tôn trọng và không bảo vệ quyền
của chủ sở hữu. Dự thảo Bộ luật cũng đã có quy định, theo đó, trường hợp tài
sản chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tài sản đã được
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng được chuyển giao cho người thứ
ba không ngay tình thì chủ sở hữu vẫn có quyền kiện đòi tài sản từ người thứ
ba. Trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền và được
chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu bồi hoàn
giá trị tài sản, bồi thường thiệt hại;
Thứ tư, việc quy định theo hướng bảo vệ
người thứ ba ngay tình trong trường hợp này còn góp phần bảo đảm và nâng cao
tính minh bạch, công khai của nền kinh tế được vận hành theo quy luật thị trường
thông qua việc: (1) Khuyến khích chủ sở hữu, người có vật quyền khác để hạn chế
rủi ro pháp lý, bảo vệ được quyền, lợi ích của mình thì phải thực hiện việc
đăng ký tài sản một cách kịp thời, đúng pháp luật; (2) Buộc các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về đăng ký tài sản phải có trách nhiệm hơn trong thực thi
công vụ, đặc biệt là phải bảo đảm tính chính xác, minh bạch, công khai trong hoạt
động đăng ký tài sản…
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, cần tiếp tục quy định nguyên tắc bảo vệ
người thứ ba ngay tình và bảo vệ chủ sở hữu như quy định tại Điều 138 Bộ luật
dân sự năm 2005, bởi vì, nguyên tắc bảo vệ chủ sở hữu trong trường hợp này đã
được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Theo
quy định tại Điều 138 Bộ luật dân sự hiện hành, trong trường hợp giao dịch dân
sự bị Tòa án tuyên bố vô hiệu nhưng tài sản là bất động sản hoặc động sản phải
đăng ký quyền sở hữu đã chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch
với người thứ ba bị vô hiệu và chủ sở hữu được nhận lại tài sản của mình, trừ
trường hợp: a) Người thứ ba nhận được tài sản thông qua bán đấu giá; b) Người
thứ ba giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở
hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. Như vậy, chỉ trong hai trường
hợp này thì người thứ ba mới không phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Nếu quy
định như loại ý kiến thứ nhất, người thứ ba ngay tình sẽ được bảo vệ trong mọi
trường hợp và như vậy chủ sở hữu của tài sản lại không được bảo vệ. Vì vậy, cần
cân nhắc thêm về vấn đề này, đặc biệt là trong bối cảnh việc đăng ký bất động
sản đang còn có nhiều bất cập như hiện nay.
Dự thảo Bộ luật thể hiện theo loại ý kiến
thứ nhất.
5. Về thời hiệu (Từ Điều 164 đến Điều 177)
Về vấn đề này, có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Bộ luật
dân sự cần quy định về thời hiệu theo nguyên tắc: cá nhân, pháp nhân phải yêu
cầu tòa án, trọng tài giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định, hết
thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết
yêu cầu của cá nhân, pháp nhân như quy định hiện hành, tòa án hoặc trọng tài phải
thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn
trừ nghĩa vụ dân sự.
Loại ý kiến này dựa vào các căn cứ sau
đây:
Thứ nhất, quy định này là phù hợp với bản
chất pháp lý của thời hiệu, tạo công cụ pháp lý tốt hơn để các chủ thể căn cứ
vào đó mà bảo vệ các quyền dân sự của mình. Việc quy định thời hiệu khởi kiện
như hiện hành tuy có tác dụng tạo thuận lợi cho Tòa án trong việc chứng minh,
giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời tạo căn cứ để Tòa án ra quyết định đình
chỉ giải quyết vụ việc dân sự mà không phải đưa ra phán quyết cụ thể để xác
định quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ, nhưng lại có hạn chế là
chưa giúp giải quyết được một cách triệt để và dứt điểm các tranh chấp phát
sinh. Bên cạnh đó, khi không được Nhà nước bảo vệ quyền lợi thì các chủ
thể có thể sử dụng những biện pháp hành xử ngoài vòng pháp luật, gây mất trật
tự, an toàn xã hội;
Thứ hai, quy định này là để hạn chế tình
trạng Tòa án có thể căn cứ vào thời hiệu mà từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc,
góp phần cụ thể hóa và triển khai thi hành khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013,
theo đó, “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”;
Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp
của một số nước cho thấy, Bộ luật dân sự của các nước này cũng chỉ quy định
thời hiệu hưởng quyền, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ mà không quy định thời hiệu
khởi kiện.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, nên tiếp
tục kế thừa quy định về thời hiệu khởi kiện như Bộ luật dân sự hiện hành vì
các lý do sau đây:
Thứ nhất, để nâng cao trách nhiệm của các
bên trong việc yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho mình;
Thứ hai, không tạo áp
lực cho Tòa án trong việc giải quyết những vụ việc đã xảy ra trong thời gian
dài, khó xác định về chứng cứ cũng như nội dung vụ việc;
Thứ ba, thời hiệu
khởi kiện đã được quy định và áp dụng ổn định trong pháp luật dân sự và pháp
luật về tố tụng dân sự ở nước ta việc bỏ quy định về loại thời hiệu này có thể
gây ra những xáo trộn nhất định trong thi hành pháp luật.
Dự thảo Bộ luật
thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất.
6. Về hình thức sở
hữu (Điều 206 và từ Điều 219 đến Điều 242)
Về vấn đề này, có hai loại ý kiến:
- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, để cụ thể
hóa và để bảo đảm sự thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013
về sở hữu toàn dân thì Bộ luật dân sự cần quy định ba hình thức sở hữu, bao
gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.
Loại ý kiến này dựa vào các căn cứ sau
đây:
Thứ nhất, sự phân loại này bảo đảm tính thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp
năm 2013 về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã
được ghi nhận tại các điều 32, 51 và 53, đồng thời cũng phù hợp với nguyên tắc
xác định hình thức sở hữu, theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì cần phải
căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là
chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành;
Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm
2013 thì Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý các tài sản
thuộc sở hữu toàn dân, do đó, có thể xác định Nhà nước chính là chủ thể có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài
sản này. Vì vậy, trên cơ sở sở hữu toàn dân, Bộ luật dân sự cần ghi nhận cụ thể
vai trò của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản công ;
Thứ ba, tài sản thuộc hình thức sở hữu
toàn dân (trong Bộ luật dân sự năm 2005 được gọi là hình thức sở hữu nhà nước)
là một hình thức sở hữu đặc thù, cần phải có chế độ pháp lý riêng biệt trong Bộ
luật dân sự.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Bộ luật
dân sự chỉ nên quy định hai hình thức sở hữu trong giao lưu dân sự là sở hữu
riêng và sở hữu chung. Trong đó, sở hữu riêng là sở hữu của một chủ thể, bao
gồm cá nhân, pháp nhân; sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với một
tài sản; sở hữu toàn dân thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân
chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Loại ý kiến này
dựa trên các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, việc quy định hình thức sở hữu riêng, sở hữu
chung là để phù hợp với nguyên tắc xác định hình thức sở hữu trong các quan hệ
dân sự, theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì cần phải căn cứ vào sự khác
biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ
sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là chủ thể cụ thể của
quyền sở hữu như quy định hiện hành;
Thứ hai, việc quy định sở
hữu toàn dân thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý là để phù hợp với nội dung, tinh
thần của Hiến pháp là tài sản công thuộc sở hữu của toàn dân, đồng thời tạo chế
độ pháp lý cụ thể để Nhà nước thực hiện vai trò của mình trong đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý tài sản công.
Trên cơ sở hai loại ý kiến nêu trên, dự
thảo Bộ luật quy định hai phương án về hình thức sở hữu, cụ thể:
Phương án 1, hình thức sở hữu trong Bộ
luật dân sự bao gồm, sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung;
Phương án 2, hình thức sở hữu trong Bộ
luật dân sự bao gồm, sở hữu riêng và sở hữu chung, trong đó, sở hữu toàn dân
thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
7. Về việc sử dụng một số thuật ngữ trong dự thảo Bộ luật
Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:
- Loại ý
kiến thứ nhất cho rằng, các thuật ngữ pháp lý mới như “Hành vi pháp lý dân sự”, “Vật
quyền”, “Trái quyền” là quá trừu tượng, khó hiểu, có thể gây khó khăn trong nhận
thức, áp dụng pháp luật và có thể làm phát sinh thêm nhiều chi phí do việc thay
đổi các từ ngữ này. Vì vậy, dự thảo Bộ luật cần tiếp tục sử dụng các thuật ngữ
đã được sử dụng ổn định, dễ hiểu hơn với người dân, như “Giao dịch dân sự” mà
không nên sử dụng “Hành vi pháp lý dân sự”; “Quyền sở hữu và các vật quyền
khác” mà không nên sử dụng “Vật quyền”; “Nghĩa vụ và hợp đồng” mà không nên sử
dụng “Trái quyền”.
- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, để phát huy được vai trò của Bộ luật dân sự
là luật nền, luật chung của hệ thống pháp luật dân sự, có thể bao quát, dự báo
được sự đa dạng, phong phú và đúng tính chất pháp lý của các quan hệ dân sự nói
chung, của các quyền tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa nói riêng, đồng thời, cũng bảo đảm được sự thống nhất, ổn định trong
nghiên cứu, nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự thì cần mạnh dạn sử
dụng trong Bộ luật dân sự những thuật ngữ pháp lý có nội hàm đủ sức truyền tải được
các yêu cầu nêu trên, trong đó có “hành vi pháp lý dân sự”, “vật quyền”, “trái
quyền”.
Trên cơ sở hai loại ý kiến nêu trên, dự
thảo Bộ luật quy định hai phương án về việc sử dụng thuật ngữ, cụ thể:
Phương án 1, sử dụng thống nhất trong dự
thảo Bộ luật về các thuật ngữ “Giao dịch dân sự”, “Quyền sở hữu và các vật quyền
khác” và “Nghĩa vụ và hợp đồng”;
Phương án 2, sử dụng thống nhất trong dự
thảo Bộ luật về các thuật ngữ “Hành vi pháp lý dân sự”, “Vật quyền” và “Trái
quyền”.
8. Về cách thức xin ý kiến của Quốc hội; thời điểm, cách thức lấy ý kiến
nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Bộ luật dân sự có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, hệ thống
pháp luật dân sự nói riêng; trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, quyền công dân; trong việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; trong việc thúc đẩy sự hình thành và phát triển các thiết
chế dân chủ, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Do đó, để bảo đảm hiệu quả trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật
dân sự (sửa đổi), Chính phủ xin ý kiến Quốc hội về hai nội dung sau đây:
a) Về
cách thức xin ý kiến của Quốc hội đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Theo Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII năm 2014 và năm 2015 thì dự thảo Bộ
luật dân sự (sửa đổi) được Quốc hội cho ý kiến tại các kỳ họp thứ 8, thứ 9 và xem
xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Chính phủ đề xuất cách thức Quốc hội cho ý kiến
như sau: tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội cho ý kiến về mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây
dựng dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi), những vấn đề Chính phủ xin ý kiến Quốc hội
được thể hiện trong Tờ trình này và nội dung Phần thứ nhất “Quy định chung” của
dự thảo Bộ luật; tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội cho ý kiến về các phần còn lại của
dự thảo Bộ luật; tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội tiếp tục cho ý kiến và xem xét,
thông qua dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi).
b) Về thời điểm lấy ý kiến nhân dân và cách thức tiếp thu, chỉnh lý dự
thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
Để phù hợp với cách thức
xin ý kiến Quốc hội như đã nêu ở trên, Chính phủ đề xuất Quốc hội có Nghị quyết
giao cho Chính phủ tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)
trong khoảng thời gian từ tháng 1/2015 đến tháng 3/2015. Trên cơ sở kết quả tổng
hợp ý kiến nhân dân, Chính phủ chỉ đạo Cơ quan chủ trì soạn thảo dự án Bộ luật dân
sự (sửa đổi) phối hợp với các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan, tổ chức liên
quan để tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Bộ luật, báo cáo Ủy ban Thường vụ
Quốc hội và trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 9.
Trên đây là nội dung cơ bản của dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi), Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
(Xin gửi kèm theo: (1) Dự thảo Bộ luật; (2) Bản thuyết minh chi tiết
dự thảo Bộ luật; (3) Bảng so sánh dự thảo Bộ luật; (4) Báo cáo đánh giá tác động
của dự án Bộ luật; (5) Báo cáo lồng ghép giới trong xây dựng dự án Bộ luật; (6)
Báo cáo của Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh triển khai thi
hành Hiến pháp; (7) Báo cáo thẩm định dự án Bộ luật; (8) Báo cáo tiếp thu, giải
trình ý kiến của Hội đồng thẩm định; (9) Báo cáo tổng hợp và tiếp thu, giải
trình ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương; (10) Báo cáo tổng kết thi hành Bộ
luật dân sự năm 2005; (11) Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm nước ngoài)./.
Nơi nhận:
|
TM.CHÍNH
PHỦ
|
- Như trên;
- Ban Bí thư (để b/c);
- Thủ tướng và các Phó Thủ tướng CP (để b/c);
- UBPL, UBTP, UBKT, UBCVĐXH của QH;
- Ban Nội chính TW;
- Văn phòng Trung ương Đảng;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Bộ Tư pháp;
- VPCP: BTCN, các PCN;
Các Vụ: TH, KGVX, V.III;
- Lưu: VT, PL (3).
|
TUQ. THỦ
TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG
BỘ TƯ PHÁP
Hà Hùng Cường
|
[1] Bộ Tư pháp đã nhận được
Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật dân sự của 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, 21/21 Bộ, ngành, tổ chức có liên quan ở Trung ương.
[2] Bộ Tư pháp đã nhận được
46 công văn của các địa phương, cơ quan, tổ chức về đánh giá bất cập, hạn chế của
Bộ luật dân sự.
[3] Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong Báo cáo Tổng kết
thi hành Bộ luật dân sự năm 2005 của ngành đã đề nghị không kết cấu Phần “Quy định về chuyển
quyền sử dụng đất” và Phần “Quyền sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ”
thành các phần riêng trong Bộ luật dân sự.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét