Ảnh hưởng của luật La Mã đến hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU
Luật La Mã được xây dựng cách đây hàng ngàn năm và được coi là bộ luật có sức ảnh hưởng mạnh mẽ và rộng rãi nhất đến hệ thống pháp luật của các quốc gia hiện đại. Vì nhiều lý do trong lịch sử, Việt Nam cũng là nước chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi pháp luật La Mã đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự. Nghiên cứu sự ảnh hưởng của pháp luật La Mã đến pháp luật dân sự Việt Nam cũng là nghiên cứu để hiểu rõ hơn cội nguồn của hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Chính vì vậy, em chọn đề tài “Phân tích và nêu nhận xét của mình về ảnh hưởng của luật La Mã đến hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay”.
NỘI DUNG
I.                  SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT LA MÃ HỆ THỐNG LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY.
Để phân tích được sự ảnh hưởng của luật La Mã đến pháp luật dân sự Việt Nam thì cần thiết phải thông qua sự so sánh trực tiếp giữa các quy định của pháp luật La Mã và Pháp luật Việt Nam trong các chế định cụ thể, từ đó rút ra nhận xét.
1.     Chế định về địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ dân sự.
·             Trong tư pháp La Mã:
Các luật gia La Mã xác định có 6 loại chủ thể trong quan hệ pháp luật, bao gồm: công dân La Mã; người La Tinh và người ngoại tộc; nô lệ; nông nô, lệ nông; pháp nhân. Trong phạm vi bài tiểu luận em sẽ phân tích chủ yếu về hai chủ thể là công dân La Mã và Pháp nhân trong tư pháp La Mã.
-              Công dân La Mã (cá nhân): luật La Mã công nhận công dân La Mã từ khi sinh ra đã có năng lực pháp luật, chẳng hạn: một đứa bé mới sinh ra đã quyền thừa kế tài sản. Năng lực pháp luật của công dân chấm dứt khi cá nhân đó chết (sinh học hoặc bị tuyên bố chết). Các luật gia La Mã không phân biệt năng lực pháp luật và năng lực hành vi của công dân, nhưng họ lại quy định độ tuổi và điều kiện để công dân có thể thực hiện được các quyền, nghĩa vụ dân sự của mình. Cụ thể: người dưới 7 tuổi hoặc người bị bệnh tâm thần không có năng lực hành vi nhưng họ vẫn có năng lực pháp luật và phải có người giám hộ; nữ từ 7 – 12 tuổi, nam từ 7 – 14 tuổi thì có năng lực hành vi một phần, được tham gia những giao dịch nhỏ, những giao dịch lớn thì phải được sự đồng ý của gia chủ hoặc người đỡ đẫu, luật còn quy định chúng chỉ được tham gia những giao dịch làm tăng giá trị tài sản của bản thân những giao dịch không làm tăng giá trị tài sản của họ đều vô hiệu; Nam trên 14 tuổi, nữ trên 12 tuổi không mắc các bệnh tâm thần đều có năng lực hành vi đầy đủ và được tham gia và các giao dịch; một số người do hành vi của mình mà bị hành chế năng lực hành vi như người nghiện rượu, người sống tha hóa.. bị đối xử như người 10 tuổi và phải đặt dưới sự giám sát của người giám hộ. Luật La Mã quy định những người mắc bệnh tâm thần, người mất năng lực hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi, người bị hạn chế về thể chất, … đều phải đặt dưới sự giám hộ.
-              Pháp nhân: luật La Mã không có khái niệm pháp nhân nhưng dấu hiệu của pháp nhân đã chứa đựng trong các yếu tố của tổ chức thời La Mã. Chẳng hạn: Luật XII bảng cho phép các nhà thờ của tôn giáo, các hội buôn.. được tham gia các quan hệ xã hội với chủ thể khác về lĩnh vực tài sản và nhân thân để phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển của tổ chức; cho phép công dân có quyền tự do lập hội, tự do về điều lệ; trừ tổ chức tôn giáo các tổ chức khác chỉ được thành lập khi có sự đồng ý của nghị viện hoặc quyết định của hoàng đế; tổ chức bị chấm dứt khi số người tham gia không đủ 3 người; vào thời Ôguxtuxơ các tổ chức có quyền sở hữu tài sản.
·        Trong quy định của pháp luật Việt Nam:
-              Về cá nhân: theo điều 16 BLDS 2015 năng lực pháp luật của cá nhân bắt đầu từ khi sinh ra và chấm dứt khi người đó chết; điều 17 quy định năng lực pháp luật bao gồm các quyền: “quyền nhân thân không gắn với tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản; quyền sở hữu, thừa kế và quyền khác đối với tài sản; quyền tham gia quan hệ dân sự và có nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ đó”. BLDS 2015 cũng dựa vào độ tuổi và khả năng nhận thức để xác định năng lực hành vi của cá nhân. Cụ thể: luật quy định người chưa đủ 6 tuổi là người không có năng lực hành vi mọi giao dịch do người đại diện theo pháp luật xác lập; người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi có thể thực hiện một số giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi, còn lại phải do người đại diện theo pháp luật đồng ý; người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi chỉ trừ những giao dịch lớn, liên quan đến tài sản phải đăng ký.. phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật,các giao dịch còn lại có thể tự mình thực hiệ; người từ đủ 18 tuổi và đủ điều kiện về nhận thức, làm chủ hành vi là người có đầy đủ năng lực hành vi.
Luật cũng quy định người bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ hành vi và có quyết định của tòa án thì bị mất năng lực hành vi dân sự; hay người bị nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình bị tòa án tuyên bố bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có yêu cầu… những người này đều phải đặt dưới sự giám sát của người đại diện theo pháp luật.
-              Về pháp nhân: BLDS Việt Nam đã quy định một chế định riêng về pháp nhân. Theo đó, luật ghi nhận nguyên tắc mọi cá nhân, tổ chức đều có quyền thành lập pháp nhân, pháp nhân tài sản độc lập và có thể nhân danh chính mình tham gia vào quan hệ pháp luật một cách độc lập, ngoài ra luật còn quy định rõ việc pháp nhân tham gia quan hệ pháp luật như thế nào, trách nhiệm của pháp nhân, chấm dứt pháp nhân…
2.     Chế định tài sản.
·        Trong tư pháp La Mã.
-              Về tài sản: người La Mã đã phân loại tài sản bao gồm: vật và quyền tài sản. Vật cũng được phân loại dựa vào các tiêu chí khác nhau như: vật im lặng- vật biết kêu – vật biết nói; Động sản, bất động sản; vật đặc định – vật cùng loại; vật tiêu hao – vật không tiêu hao; vật đơn nhất – vật đồng bộ (vật phức tạp); vật lưu thông – vật không được phép lưu thông… về quyền tài sản bao gồm: quyền đối vật; quyền đối nhân; quyền sở hữu. Ngoài ra, người La Mã còn phân biệt tài sản đã hình thành – tài sản hình thành trong tương lai.
-              Về vật quyền: là quyền của chủ sở hữu và của người khác đối với tài sản mà không phụ thuộc và ý chỉ của ai cả. Các luật gia La Mã phân loại vật quyền bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sở hữu và quyền đối với tài sản của người khác. Trong tư pháp La Mã, người chiếm hữu thực tế được pháp luật bảo vệ trước tiên, họ được pháp luật suy đoán là người có quyền và có thể xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu; ai muốn lấy lại tài sản thì phải chứng minh kể cả chủ sở hữu. Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Quyền đối với tài sản của người khác gồm: quyền địa dịch, quyền dụng ích cá nhân và quyền bề mặt.
·        Trong quy định của pháp luật Việt Nam.
-              Về tài sản: các nhà làm luật Việt cũng phân loại tài sản dựa vào những căn cứ khác nhau như trong tư pháp La Mã. Chẳng hạn: tài sản có động sản – bất động sản; hoa lợi – lợi tức; vật chia được – vật không chia được; vật tiêu hao – vật không tiêu hao; vật đặc định – vật cùng loại; vật lưu thông – vật không lưu thông. Đặc biệt, trong BLDS 2015 đã ghi nhận trong một điều luật phân loại tài sản là tài sản hiện có – tài sản hình thành trong tương lai như người La Mã, đây là quy định mới xuất hiện trong pháp luật dân sự Việt Nam. Mặc dù vậy, trong luật dân sự Việt Nam từ trước đến nay đều không phân loại vật thành vật im lặng – vật biết kêu – vật biết nói.
-              Về vật quyền: ­trong BLDS Việt Nam không nói tới khái niệm vật quyền nhưng thông qua các điều luật có thể thấy nhà làm luật đã có quy định về vật quyền như: quyền sở hữu (điều 164 – bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản). Điều đáng nói là trong BLDS 2015 sắp có hiệu lực đã quy định đầy đủ các loại vật quyền giống tư pháp La Mã đó là: quyền chiếm hữu (điều 179); quyền sở hữu (điều 158); quyền khác đối với tài sản (điều 159) . Tại khoản 2 điều 159 cũng quy định “quyền khác đối với tài sản bao gồm: quyền đối với bất động sản liền kề; quyền hưởng dụng; quyền bề mặt”.
3.     Chế định nghĩa vụ hợp đồng.
·        Trong tư pháp La Ma:
-              Nghĩa vụ dân sự: tư pháp La Mã định nghĩa, “nghĩa vụ là sự ràng buộc của các chủ thể trong đó người ta phải thực hiện một số hành vi theo pháp luật quy định”. Trong quan hệ này, một bên có quyền yêu cầu được gọi là trái chủ, bên phải thực hiện yêu cầu gọi là thụ trái. Nó được phát sinh từ bốn căn cứ, bao gồm: nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng; nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm tư pháp; nghĩa vụ phát sinh như từ hợp đồng (thực hiện công việc không có ủy quyền và được giàu không có căn cứ) và nghĩa vụ phát sinh như từ các vi phạm. Đặc trưng của quan hệ này là luôn có hai bên thủ thể (chủ nợ - con nợ), ban đầu các luật gia La Mã tuyệt đối hóa tính nhân thân của chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ. Tuy nhiên, về sau quan niệm về tính nhân cũng thay đổi dần, các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ có thể thay đổi khi chủ nợ hoặc con nợ chết; việc chuyển quyền yêu cầu cũng có thể thực hiện khi chủ nợ còn sống và chỉ phải thông báo cho con nợ về việc này; đặc biệt, cho phép các chủ thể có thể thỏa thuận về việc chuyển giao nghĩa vụ cho người thứ ba, sự thỏa thuận này phải là thỏa thuận của của ba bên (chủ nợ; con nợ và bên thứ ba). Tất nhiên, không phải mọi quan hệ nghĩa vụ đều có thể chuyển giao, đối với những quan hệ mà quyền và nghĩa vụ gắn liền với nhân thân thì các bên chủ thể không thể chuyển giao. Để đảm bảo nghĩa vụ được thực hiện tư pháp La Mã đã quy định: nghĩa vụ phải được thực hiện bởi chính người có quyền định đoạt; thực hiện cho chính người được hưởng lợi; thực hiện đúng nội dung, địa điểm; đúng thời hạn. Khi các chủ thể không thực hiện đúng nghĩa vụ sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự đối với họ, đó là việc họ phải thực hiện một nghĩa vụ với chủ nợ bằng tài sản của mình. Trách nhiệm dân sự được xác định dựa trên yếu tố lỗi (cố ý, vô ý nặng, vô ý nhẹ), việc phân loại lỗi là căn cứ để tăng hay giảm mức độ chịu trách nhiệm… Nghĩa vụ chấm dứt khi: bên có nghĩa vụ thực hiện xong nghĩa vụ; các bên đổi mới nghĩa vụ hay bù trừ nghĩa vụ cho nhau.
-              Về hợp đồng: Luật về hợp đồng trong tư pháp La Mã có hai hệ thống hợp đồng  (giao ước và khế ước). Các giao ước là hợp đồng nhưng không được pháp luật liệt kê nên về nguyên tắc không được pháp luật bảo hộ, còn khế ước là các hợp đồng đã được liệt kê trong văn bản pháp luật do đó được bảo vệ. Như vậy, trong tư pháp La Mã không có quy định để điều chỉnh chung cho tất cả hợp đồng phát sinh trên thực tế, mà pháp luật mới chỉ liệt kê một số hợp đồng phổ biến để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Đối với những hợp đồng đã liệt kê, luật quy định có ba hình thức giao kết hợp đồng là: thông qua nghi lễ; lời nói hay văn bản. Về nội dung của hợp đồng, các luật gia La Mã đã chia thành hai loại điều khoản, điều khoản cơ bản – là điều khoản mà thiếu nó thì không thể xác định được hợp đồng đã được giao kết hay chưa (coi như hợp đồng không được giao kết); điều khoản không cơ bản – điều khoản cần thiết cho hợp đồng nhưng thiếu nó thì hợp đồng vẫn phát sinh hiệu lực. Để hợp đồng được hình thành các luật gia xây dựng mô hình hai giai đoạn hỏi đáp (đề nghị giao kết – trả lời) và thừa nhận nguyên tắc “việc giao kết hợp đồng do chính các bên tham gia hợp đồng trực tiếp thực hiện”. Hợp đồng sẽ có hiệu lực khi đủ các điều kiện do pháp luật quy định, bao gồm 5 điều kiện: thể hiện ý chí chung; phải thống nhất giữa ý chí chung với bày tỏ ý chí chung (các trường hợp do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa, cưỡng bức mà giao kết hợp đồng đều vi phạm điều kiện này); nội dung của hợp đồng không trái với các quy định bắt buộc; nội dung hợp đồng không trái đạo đức xã hội và cuối cùng nội dung của hợp đồng phải rõ ràng, mang tính xác định.
·             Trong pháp luật Việt Nam.
-              Nghĩa vụ dân sự: khái niệm nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam cũng quy định tương tự luật La Mã “là việc bên có nghĩa vụ phải chuyển giao vật … (thực hiện một số hành vi pháp luật quy định) vì lợi ích của bên có quyền” (điều 280 BLDS 2005). Theo đó, quan hệ nghĩa vụ có hai bên chủ thể (bên có nghĩa vụ và bên có quyền). Về căn cứ pháp sinh, điều 281 quy định 5 căn cứ pháp sinh quan hệ nghĩa vụ gồm: hợp đồng dân sự; hành vi pháp lý đơn phương; thực hiện công việc không có ủy quyền; chiếm hữu, sử dụng  hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật; gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật. Cũng giống như pháp luật La Mã thời kỳ sau, tính nhân thân trong quan hệ nghĩa vụ theo pháp luật Việt Nam chỉ mang tính tương đối. Các bên trong quan hệ có thể thỏa thuận về việc chuyển giao quyền hay nghĩa vụ cho người thứ ba, chỉ trừ các trường hợp quyền và nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của chủ thể tham gia không được phép chuyển giao. Về thực hiện nghĩa vụ, pháp luật nước ta cũng quy định tương tự người La Mã có một số quy định cụ thể hơn các nguyên tắc mà người La Mã đã xây dựng. Tuy nhiên, việc xác định lỗi trong trách nhiệm dân sự ở Viêt Nam có sự khác biệt so với người La Mã. Về cơ bản nguyên tắc suy đoán lỗi vẫn là nguyên tắc để xác định trách nhiệm dân sự nhưng trong luật dân sự Việt Nam việc phân loại lỗi (cố ý – vô ý) như người La Mã không là căn cứ để thay đổi mức độ trách nhiệm, người vi phạm chỉ cần có lỗi là phải chịu trách nhiệm.
-              Về hợp đồng: so với luật hợp đồng trong tư pháp La Mã luật hợp đồng trong luật dân sự Việt Nam đã xây dựng được quy định chung để điều chỉnh cho tất cả hợp đồng phát sinh trên thực tế. Cụ thể: BLDS 2005 và BLDS 2015 về phần hợp đồng đều có hai phần, phần chung gồm các quy định chung áp dụng cho tất cả các hợp đồng và phần riêng liệt kê các loại hợp đồng thông dụng để có quy định riêng điều chỉnh cho những loại hợp đồng này; ngoài ra trong một số văn bản chuyên ngành cũng có những quy định riêng điều chỉnh đối với những loại hợp đồng nhất định. Như vậy, mọi hợp đồng phát sinh đều được pháp luật điều chỉnh và bảo vệ. Về hình thức giao kết hợp đồng,  luật dân sự Việt Nam có bốn hình thức giao kết: lời nói, văn bản, giao kết bằng hành vi cụ thể, văng bản có công chứng, chứng thực, đăng ký.Về nội dung của hợp đồng luật dân sự Việt Nam không có sự phân biệt điều khoản cơ bản – điều khoản không cơ bản như trong luật La Mã, mà luật đưa ra một số nội dung quan trọng trong hợp đồng (chính là các điều khoản cơ bản trong luật La mã) để định hướng cho các chủ thể thỏa thuận chứ không mang tính chất bắt buộc. Việc giao kết hợp đồng, về cơ bản cũng dựa trên mô hình hai giai đoạn hỏi đáp nhưng việc giao kết không bắt buộc chính các bên tham gia hợp đồng thực hiện mà có thể ủy quyền cho người khác tham gia. Hiệu lực của hợp đồng theo luật dân sự Việt Nam cũng bao gồm hầu hết các điều kiện như trong tư pháp La Mã, chỉ trừ điều kiện nội dung của hợp đồng phải rõ ràng, mang tính xác định.
4.     Chế định thừa kế.
·        Trong tư pháp La Mã.
Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của cá nhân đã chết cho những người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc được thực hiện khi người chết để lại di chúc hợp pháp, thừa kế theo pháp luật thực hiện khi người chết không lập di chúc hoặc di chúc bị vô hiệu hoặc có di chúc nhưng người được chỉ định trong di chúc không nhận di sản. Đặc trưng của thừa kế trong La Mã là không kết hợp hai hình thức thừa kế cùng một lúc tức là nếu đã thừa kế theo di chúc thì không áp dụng thừa kế theo pháp luật và ngược lại. Người thừa kế theo di chúc thì được hưởng toàn bộ di sản.[1] Theo luật La Mã thời điểm mở thừa kế là thời điểm người để lại di sản chết. kể từ thời điểm mở thừa kế những người thừa kế có quyền nhận di sản thừa kế.
Người kế theo di chúc được hưởng những kỷ phần được xác định trong di chúc. Người thừa kế theo pháp luật được hưởng những kỷ phần ngang nhau. Nghĩa vụ mà người chết để lại được xác định theo tỷ lệ di sản mà mỗi người được hưởng. Luật La Mã cũng quy định một di chúc như thế nào là hợp pháp (người lập di chúc phải có năng lực lập di chúc, hình thức của di chúc, người được chỉ định trong di chúc có năng lực hưởng thừa kế); một số trường hợp pháp luật hạn chế quyền định đoạt di sản của người lập di chúc và cho phép một người thừa kế được hưởng một phần tối thiểu của di sản khi họ thuộc vào những trường hợp pháp luật quy định, phần tối thiểu này gọi là kỷ phần bắt buộc. Người hưởng thừa kế bắt buộc có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án cho hưởng kỷ phần bắt buộc…
·        Thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo pháp luật Việt Nam một người cũng có thể để lại tài sản của mình cho người khác sau khi chết theo di chúc hoặc theo pháp luật. Tuy nhiên, không giống tư pháp La Mã một có thể kết hợp hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Di sản của một người nếu chia theo di chúc vẫn còn thì phần còn lại sẽ được chi theo pháp luật. thời điểm mở thừa kế theo pháp luật Việt Nam cũng tương tự như pháp luật La Mã.
Quyền định đoạt di sản của người lập di chúc cũng bị hạn chế trong một số trường hợp, trường hợp đó pháp luật gọi là những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Và họ cũng có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án cho mình hưởng phần di sản này. Tuy nhiên,  đối tượng được hưởng kỷ phần bắt buộc này theo pháp luật của nước ta có quy định khác so với người La Mã…
5.     Chế định luật hôn nhân – gia đình
·        Trong tư pháp La mã.
Trong tư pháp La Mã hôn nhân là sự liên minh giữa người đàn ông với người đàn bà nguyễn chung sống với nhau suốt đời. Theo đó, hôn nhân vào thời kỳ La Mã là hôn nhân một vợ, một chồng và được pháp luật bảo hộ. Pháp luật quy định các điều kiện kết hôn là: tuổi kết hôn, vợ chồng phải cùng là người La Mã cả hai bên phải chưa vợ, chưa chồng hoặc đã ly hông, không cùng huyết thống trong phạm vi ba đời. Hôn nhân chấm dứt khi: một bên vợ hoặc chồng chết trước; hai người li hôn (thuận tình hoặc theo yêu cầu của một bên)… Pháp luật La Mã phân biệt nam nữ rất rõ ràng thông qua hai hình thức là hôn nhân theo chồng và hôn nhân không theo chồng, quyền nhân thân và tài sản trong hai trường hợp này người phụ nữ đều là bên bị yếu thế hơn đặc biệt là trong hôn nhân theo chồng. Xã hội La Mã đặc biệt đề cao quyền gia trưởng trong gia đình.
·        Trong pháp luật Việt Nam.
Pháp luật nước ta cũng bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ, một chồng nhưng cả hai bên vợ chồng đều bình đẳng với nhau pháp luật có nhiều quy định bảo đảm quyền lợi của người phụ nữ trong quan hệ vợ chồng. Luật hôn nhân gia đình cũng có quy định điều kiện kết hôn rộng hơn trong Tư pháp La Mã, bao gồm: điều kiện về tuổi; cả hai bên phải chưa vợ, chưa chồng hoặc đã ly hôn; không được kết hôn cùng huyết thống… về căn cứ chấm dứt hôn nhân cũng có một số căn cứ như người La Mã như: một bên trong quan hệ vợ chồng chết trước; hai người li hôn (thuận tình hoặc theo yêu cầu của một bên…Tuy nhiên, khác biệt so với luật La Mã luật hôn nhân – gia đình nước ta coi hai bên vợ chồng bình đẳng nên không có sự phân biệt hôn nhân theo chồng và hôn nhân không theo chồng. Chúng ta cũng đã xóa bỏ quan niệm gia trưởng từ rất lâu…
II.               NHẬN XÉT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA LUẬT LA MÃ ĐẾN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY.
Từ những phân tích qua sử dụng phương pháp so sánh trong phần trên có thể nhận thấy nhìn chung pháp luật La Mã ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện đến hệ thống luật dân sự Việt Nam hiện nay.  Hầu hết các nguyên tắc trong luật La Mã đều được tìm thấy trong pháp luật Việt Nam. Đặc biệt là các chế định về địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ dân sự; chế định tài sản; chế định nghĩa vụ hợp đồng và chế định thừa kế. Các nhà làm luật Việt Nam đã kế thừa những tinh túy trong pháp luật La Mã, đã cụ thể và chi tiết hơn các nguyên tắc ấy trong pháp luật của mình. Tuy nhiên, như đã phân tích chúng ta không tiếp nhận hoàn toàn một cách thụ động mà là sự tiếp thu có chọn lọc để phù hợp với xã hội Việt Nam, đồng thời loại bỏ những quy định lạc hậu trong tư pháp La Mã. Điều này được thể hiện rõ nhất qua chế định hôn nhân – gia đình và các quy định về tài sản hay một số quy định về thừa kế. Mặt khác, thông qua sự so sánh các quy định mới trong của BLDS 2015 với các quy định trong BLDS 2005 và quy định trong luật La Mã thể hiện pháp luật dân sự Việt Nam cũng ngày càng có xu hướng tiếp nhận luật La Mã một cách sâu sắc hơn.
KẾT LUẬN
Tóm lại, pháp luật La Mã ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện đến hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu nhiều hơn các quy định trong tư pháp La Mã là rất cần thiết để vận dụng vào hoàn thiện các quy định trong hệ thống pháp luật nước ta hiện nay. Bài tiểu luận đã chứng minh phần nào tầm quan trọng của luật La Mã trong xã hội ngày nay
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.     Giáo trình luật La Mã đại học luật Hà Nội, NXB CAND, năm 2003.
2.     Bộ luật dân sự năm 2005
3.     Bộ luật dân sự năm 2015.
4.     Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.




[1] Giáo trình luật La Mã đại học luật Hà Nội, NXB CAND, năm 2003, trang 170.
Share on Google Plus

About Unknown

    Blogger Comment
    Facebook Comment

5 nhận xét:

  1. Trả lời
    1. Very good. Tiếp tục cố gắng, tiếp tục đam mê

      Xóa
  2. bài viết rất hay, nhân tiện bên IURA đang tuyển người sll ai có như cầu apply nha

    Trả lờiXóa
  3. Bài viết rất hay và chi tiết nữa. cảm ơn thủ post


    > Tư vấn Luật IURA

    Trả lờiXóa